Một nation như là một hành động chính trị hướng về tương lai

Có thể chữ Nôm được gọi là “Nôm” thay vì “Nam” mới vài thế kỷ nay. Trước đó có thể nó được gọi là chữ Nam, để phân biệt với chữ Hán ở phương Bắc. Cho đến khi chữ quốc ngũ hình thành ở Hội An – Nước Mặn thì nó mới được gọi là “chữ Nôm” theo âm quảng (Nam đọc là Nôm, như Hán Nam đọc là Hán Nôm. Tương tự như vậy, trước khi người Âu (Việt) đến đất của người Lạc thì người Lạc chỉ là người “Lạc”, sau khi người Âu kéo đến người Lạc mới thành Lạc Việt.

1/13

Trong Avya – một phương pháp lập luận của triết học Ấn độ cổ đại (tương đương với tam đoạn luận /syllogism của Hy Lạp cổ), nay quen thuộc hơn với tên gọi luận thức – có năm thành phần, thường được dịch là ngũ chi tác pháp . Trong đó có udàharanïa là dụ pháp (phương pháp so sánh bằng ví dụ); có upanaya là hiệp pháp và nigamana là kết pháp. Dụ pháp nói “Ở đâu có khói, ở đó có lửa, ví dụ lửa cháy trong bếp củi.” Hiệp pháp nói: Sườn núi kia có khói bốc lên. Kết pháp: Vậy thì ở sườn núi kia có lửa.

Avya được sử dụng trong một triết phái Ấn độ cổ tên là Nyāya – nay được dịch là chứng phái luận. Câu nói quen thuộc “không có lửa làm sao có khói” trong tiếng Việt rất khó phân biệt là thành ngữ hay tục ngữ có thể là vì nó có nguồn gốc từ Nyāya, và có thể suy luận xa thêm rằng nền văn minh cổ của người Việt đã từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn minh Ấn độ, trước khi nền văn minh Trung Hoa sơ kỳ phủ bóng lên nó.    

“Không có lửa làm sao có khói” còn phản ánh tính cách học hành không đến nơi đến chốn của người Việt, bởi dụ pháp nó có đồng dụ (như ví dụ trên) và dị dụ (mặt hồ đầy khói, nhưng không có lửa), nhưng kiến thức dân gian chỉ ghi nhận một vế. Hoặc đơn giản hơn, triết học cổ Ấn Độ và các phương pháp lập luận của nó vừa kịp ăn sâu bén rễ vào xã hội Lạc/Âu Lạc/Việt cổ thì Hán hóa sơ kỳ (tức là văn hóa Hán chưa hoàn thiện) đã tràn vào. Bởi cho đến nay trong kho tàng tri thức dân gian của người Việt hoàn toàn thiếu vắng dấu vết của pramāṇas (nay được gọi là lượng pháp) là một phương pháp lý luận (reasoning) tương đương với logic reasoning của người Hy Lạp cổ.

Tạ Chí Đại Trường từng có một nhận xét, đúng hơn phải gọi là phát kiến, khi ông cho rằng câu “có tội thì lội xuống sông” có nguồn gốc từ Ấn Độ với lễ hội đẫm màu sắc tôn giáo: tắm sông Ganges (sông Hằng) để rửa tội.

2/13

Trong tiếng Anh có một từ mà vật lý hiện đại dịch là Đột Sinh. Trong tiếng Anh nó là emergence. Emergence là hiện tượng mà làn da của chúng ta đang khô, bỗng vì một lý do gì đó như bị cảm hay hạ đường huyết, mồ hôi đột ngột toát ra ướt đẫm bề mặt ngoài của da. Hoặc trong bình văn, ta nói câu thơ này toát ra tinh thần yêu nước, thì chữ “toát” ấy chính là emergence. Trong hệ lượng tử vi mô, hoặc hệ complexity (hệ phức hợp), luôn xảy ra việc các hệ này làm toát ra khỏi bề mặt một hiện tượng hoặc thực thể nào đó. Như mồ hôi toát khỏi da.

Rất nhiều quốc gia nhỏ được cho là đã emerged từ một đế quốc lớn. Nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng Việt Nam đã emerge, hoặc split, từ đế quốc Trung Hoa sau khi đế chế Đại Đường hùng mạnh và giàu có tan rã.

Nhưng các lý giải về việc Việt Nam giành lại độc lập sau gần 1000 năm bắc thuộc, hoặc emerge hoặc split ra từ Đế quốc Đường không trả lời được nhiều câu hỏi: tại sao tiếng Việt lại như hiện nay, tại sao tôn giáo VN lại là Tam giáo, tại sao có thơ lục bát, tại sao Ngô Quyền lại biết đóng cọc Bạch Đằng, tại sao Tây Sơn chia nước ta làm ba vương quốc… Hầu hết những câu hỏi ấy lại liên quan đến hidden identity của dân tộc Việt: identity với gene/DNA của Đông Nam Á.

3/13

Rất khó để biết ở thời điểm cụ thể nào trong lịch sử bỗng người Việt nhận ra mình… là người Việt. Hoặc không có một thời điểm như vậy, mà chỉ có một quá trình.

Để một dân tộc tự nhận ra mình là một dân tộc đòi hỏi rất nhiều yếu tố, từ ngôn ngữ văn hóa đến tín ngưỡng, tập quán. Nhưng chắc chắn một điều, người Việt nhận ra mình là người Việt khi họ có ngôn ngữ, văn hóa dân gian, tín ngưỡng và ẩm thực hoàn toàn khác với người Hán ở phía Bắc, với người Lâm Ấp ở phía Nam, và khác với người Nam Chiếu ở Đông Bắc.

Nhưng có thể đoán chuyển biến mạnh nhất khi người Việt trở thành người Việt là quãng thế kỷ thứ 4 Công nguyên.

4/13

Giáo sư sử Timothy Snyder ở đại học Yale nói về lý thuyết hình thành một nation của triết gia Ba Lan thế kỷ 19 tên là Kazimierz Kelles-Krauz:

[Sự hình thành một] Nation hoàn toàn là do tính hiện đại (modernity) chứ không liên quan gì đến truyền thống (tradition). Hiện đại hóa nhổ rễ người dân ở khắp các vùng miền, đem về đô thị, nấu lẩu họ trong nồi lẩu với mẫu số chung là ngôn ngữ (và tôn giáo).  Hiện đại hóa sẽ tạo ra nation, chứ không phải chế độ feudal (chế độ phong kiến kiểu châu Âu, hoặc Trung Hoa thời chiến quốc, hoặc nhà Trần ở Việt Nam). Hiện đại hóa làm người dân có học hơn (họ học chữ nhanh hơn và nhiều người biết chữ hơn). Hiện đại hóa mang đến những tiến trình (mới), làm cho mọi thứ khác đi so với cũ (alienation), đô thị hóa (urbanization) và dẫn người dân đến một hình thức đoàn kết mới (new form of solidarity).

Để có Nation Việt và dân tộc Việt như hiện nay cần một quá trình birth và rebirth (tái sinh) rất nhiều lần.

Lần rebirth gần đây nhất trong lịch sử, chính Nguyễn Huệ và các đạo quân của ông đã làm công việc nhổ rễ nấu lẩu người dân. Còn trước đó, trước chiến tranh, chính Hội An của chúa Nguyễn chính là quá trình văn minh hóa, đô thị hóa. Sau năm 1802, người Việt bắt đầu có một cảm thức hoàn toàn mới (alienation): họ không identify mình như một người dân của một triều đại (nhà Tần, nhà Hán, nhà Đường, nhà Đinh, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn) mà như là người dân của một dân tộc, một quốc gia. Quá này trình không thể đảo ngược nhưng vô cùng chậm chạp. Nó đột ngột tăng tốc khi Pháp xâm lược Việt Nam, chữ quốc ngữ được truyền bá và người dân vốn chỉ là đối tượng của chính trị, bỗng nhiên được tham gia chính trị, trước là ở Sài Gòn, sau là Hà Nội.

5/13

Trong nghiên cứu mới mẻ hơn, Gellner và Anderson (1980) cũng  cho rằng: Nation là kết quả của hiện đại hóa.

Đô thị Hội An, cuộc chiến tranh của nhà Tây Sơn làm dân tộc và quốc gia Việt tái sinh, nhưng trước đó người Việt sinh ra từ hai đô thị cổ và là thương cảng ven sông rất quan trọng ở đông bắc bán đảo Đông Nam Á: Cổ Loa và Luy Lâu và phần nào đó là thành phố cảng Long Biên.

Hậu thân thương cảng Luy Lâu, chính là Phố Hiến thời chúa Trịnh.

6/13  

Quay lại với Snyder, ông giáo sư này giải thích: khi một nation ra đời, hiện tại của họ sẽ có những rắc rối với quá khứ: người dân của một quốc gia dân tộc mới ra đời sẽ phải tìm cách giải thích quá khứ sao cho nó phù hợp với hiện tại. Phải làm sao để sự sự tồn tại  của nation tự nó “nation makes itself self-evident”. Sự tồn tại của một nation phải làm sao có giá trị như một tiên đề, không cần phải chứng minh.

Từ đó các câu chuyện (story) các huyền thoại (myth) ra đời, nó là cách thức để nation hiện tại đặt các tự khẳng định của nó vào trong quá khứ. Các story này không phải sự thực lịch sử, vì nó được cố ý sáng tác, thiết kế, gọt rũa có chủ đích, nhưng người ta vẫn gọi nó là lịch sử. Dù là lịch sử truyền khẩu, hay thành văn như quốc sử về sau.

Một ví dụ rất rõ ràng, là sau khi Đảng Cộng Sản giành được chính quyền họ bắt tay vào xây dựng một lịch sử về nước Việt Nam mới. Với mốc ra đời là năm 1945, những gì trước đó đều là lịch sử, nhưng lịch sử của họ tập trung vào giai đoạn kể từ 1930 là năm họ claim là đảng của họ ra đời. Họ cũng đã xóa bỏ rất nhiều lịch sử “phong kiến” và “thực dân” để kể những story hoàn toàn mới về Việt Nam. Lịch sử của Đảng đầy ắp các sự kiện từ 1930 đến 1945, rồi từ 1945-1954, rồi từ 1954 đến 1975. Nếu ai chỉ đọc chính sử của chế độ, sẽ tưởng rằng VN trong suốt vài ngàn năm lịch sử lại mới chỉ trỗi dậy đâu đó hơn trăm năm và toàn bộ lịch sử chỉ có đi đánh ngoại xâm còn ngoài ra không biết làm việc gì khác. Cũng vậy, nếu chỉ đọc sử chế độ sẽ thấy một điều kỳ lạ: các vị lãnh đạo đất nước ngoài việc bị địch bắt không khai thì không có năng lực trí tuệ gì đặc biệt.

Một ví dụ khác. Giả sử Liên Xô không có lịch sử thành văn. Khi nó chưa sụp đổ, không ai đặt câu hỏi về Liên bang Xô Viết rằng nó có thực hay không. Không ai nói rằng đế quốc ấy không tồn tại, cho đến khi nó ngừng tồn tại. Nếu không có sử thành văn, thì thời gian sẽ xóa nhòa cái đế quốc ấy, thậm chí bằng tuyên truyền thì hậu thân của nó là liên bang Nga sẽ xóa hẳn nó khỏi ký ức người dân Nga. Cũng như giới trẻ Việt Nam ngày nay gần như mất hết ký ức về VNCH dù đất nước này đã từng tồn tại, có chân trong LHQ và SEATO/Asean. Cũng vậy, ký ức về thành tựu lớn lao dựng nước và mở mang bờ cõi của Chúa Nguyễn/Nhà Nguyễn suốt hàng trăm năm bị xóa sổ, hoặc bôi đen.

Ngày nay người ta vô tư nói Việt Nam bị “ngàn năm đô hộ giặc Tàu”. Đó là do sử méo. Chỉ có miền bắc và bắc trung bộ mới bị Tàu đô hộ. Đàng Trong của chúa Nguyễn, Nam Kỳ của Nhà Nguyễn, Nam Bộ của Việt Nam chưa bao giờ bị giặc Tàu đô hộ. Nước Việt Nam hiện đại, ra đời năm 1802, cũng chưa bao giờ bị Tàu đô hộ.

7/13

Cho đến thế kỷ thứ 3 và 4, tức là khoảng 200-300 năm sau khi Mã Viện chinh phạt thành công Âu Lạc, từ nội tại người Việt bỗng nhiên có conscious self-evident về sự tồn tại của mình. Họ thấy văn hóa dân gian (folklore), phong tục, ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật của mình khác Hán. Khác với phương bắc. Thậm chí chữ viết (chữ Nôm) có thể manh nha phát sinh từ quãng thời gian này. Và bắt đầu có tư tưởng ly khai khỏi Trung Hoa. Người Việt lần đầu tiên ra đời (birth) và bắt đầu kể các story và myth về chính mình.

An Dương Vương và nỏ thần là thông điệp về sự thâm nhập của đoàn quân người Âu kéo từ phương Bắc xuống đất của người Lạc. Họ đã mang “phụ hệ” vào xã hội mẫu hệ của các Hùng King (hoặc có lẽ đúng hơn là các Hùng Queen) thông qua việc ở rể của Trọng Thủy. Cuối cùng phụ hệ thắng thế. Cái chết của công chúa Mỵ Châu, bị chính cha mình chém đầu, là hình ảnh có tính thông điệp và biểu tượng của Phụ Hệ thắng Mẫu Hệ.

Di sản hay tàn tích của cuộc chiến này đến nay vẫn còn đậm nét: phụ hệ (paternity) ở Việt Nam thường được hiểu như “họ cha/bên nội“(patrilineality kinship) thay vì phụ hệ (paternity) đúng nghĩa. Còn mẫu hệ (matriarchy) cũng được hiểu là matrilineal kinship (bên ngoại) trộn thêm mẫu quyền (母係: power of mother).

Người Âu (Việt) mang đến đất Lạc hai thứ còn tồn tại đến bây giờ. Tên dân tộc Việt và thành Cổ Loa.

Trước khi người Âu kéo xuống đất Lạc, trong tên gọi người dân và vùng đất (người Lạc và đất Lạc) không có chữ Việt. Chỉ đơn giản và gọn gàng: Lạc. Khi dân Âu, được cho là từ nhóm Bách Việt, kéo xuống, họ tạo ra Âu Lạc, và để cân đối với Âu Việt, người Lạc bỗng trở thành Lạc Việt, và ngày nay chúng ta là dân tộc Việt.

Người Âu còn mang đến hai công nghệ: vũ khí (nỏ thần) và xây dựng đô thị (thành ốc). Đô thị Cổ Loa bên sông trở thành thương cảng trung chuyển kết nối tuyến đường biển Ấn Độ, Đông Nam Á lên Trung Hoa. Cũng như các đô thị khác nó sinh ra tầng lớp thương nhân, thợ, và trí thức (mà hồi đó chủ yếu là các nhà sư.)

Cùng thời kỳ này, còn ra đời một truyền thuyết nữa: Lạc Long Quân – Âu Cơ. Hình ảnh 50 người con theo mẹ đi ra biển và từ bỏ 50 người con theo bố trên núi là thông điệp ẩn về việc người Lạc Việt ở thế kỷ 4 quyết tâm chối bỏ phụ hệ của người Hán và tách mình (theo mẫu hệ) đi ra biển.

Những lớp vỏ đắp thêm lên truyền thuyết này, hẳn phải sau thế kỷ thứ 4 khi nền đô hộ của Trung Hoa là Tùy Đường đã cố gắng Hán hóa sâu hơn nữa nhóm trí thức bản địa. Họ bắt đầu tô vẽ thêm về tổ tiên của Lạc Long Quân: được đặt về quá khứ rất xa cả về không gian lẫn thời gian:, núi Ngũ Lĩnh Hồ Động Đình, là vùng biên viễn ngăn cách nước Nam Việt của Triệu Đà với nhà Hán.

8/13

Keith Taylor chia giai đoạn lần đầu dựng nước, trong đó có 10 thế kỷ bắc thuộc, của Việt Nam thành sáu giai đoạn (ông bám theo cách phân chia ba lần dựng nước). Trong đó giai đoạn đầu là thời đại Đông Sơn, Việt Nam không chịu ảnh hưởng của Trung Hoa do nước Lạc lúc đó nằm trong văn minh đồng thau của Đông Nam Á. Giai đoạn 5 là Đế quốc Đường hùng mạnh áp đặt hoàn toàn văn hóa chính trị tôn giáo lên thuộc địa mà họ lúc này gọi là đô hộ phủ. Giai đoạn 3 và 4 là sự áp đặt lỏng lẻo, có những lúc lực lượng Hán còn rút khỏi Giao Châu (giai đoạn từ nhà Ngô đến nhà Tùy), khiến cho người dân bắt đầu loay hoay nhận ra nhân dạng của mình giữa các thế lực chính trị và tôn giáo co kéo: Trung Hoa và Ấn Độ (trong đó có Phật Giáo Trung Hoa phải cạnh tranh với Phật Giáo Ấn Độ).

Taylor cũng nhận định rằng người Việt là… người Việt, không phải China, nhưng cũng không hoàn toàn là người Đông Nam châu Á. Ông cũng nói rằng các nước láng giềng phi-Hán (nonChinese) của Việt Nam không thể hiểu được cái giá mà dân tộc Việt phải trả để giành được độc lập, khi mà người Việt nằm giữa một đế quốc tham lam là đế quốc Hán và các nước phi-Hán chỉ biết thân ai nấy lo. Điều này làm nên tính cách khác khác thường của dân tộc Việt Nam.

9/13

Có một thứ mà người Âu và người Hán đều bất lực, không Hán hóa triệt để được, đó là ngữ pháp tiếng Việt. Ngày nay tiếng Việt có dáng vẻ rất giống tiếng Mân, tiếng Quảng nhưng nó lại được xếp vào nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.

Khi người Âu kéo đến đất Lạc, tiếng Lạc đã tồn tại ở vùng đất này. Người Âu đi vào ngôn ngữ này, chứ không mang đến một ngôn ngữ mới. Tương tự như vậy, khi người Hán kéo vào Âu Lạc, họ đi vào ngôn ngữ này, sống trong ngôn ngữ này, và tạo ra một ngôn ngữ trung gian để giao tiếp (Annamese Middle Chinese): chính là tiền thân của tiếng Việt hiện đại. Còn tiếng mà dân Âu Lạc nói suốt những thế kỷ ấy, nay gọi là proto-Việt Mường.   

Tiếng Việt hiện đại chia sẻ rất nhiều đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa với các ngôn ngữ thuộc nhóm Mon-Khmer trải khắp Đông Nam châu Á. Mon-Khmer, ở chiều ngược lại, là nhóm ngôn ngữ lớn nhất trên bán đảo Đông Nam Á với hơn 100 thứ tiếng khác nhau được nói ở các khu vực địa lý khác nhau từ Myamar đến Việt Nam (Tây qua Đông) và từ Nam Trung Hoa xuống Malaysia (Bắc xuống Nam).  Đặc tính của nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer là đa thanh và có xu hướng thích đơn âm (và tồn tại bán đơn âm, như t-râu/trâu, b-lời/t-rời/trời/giời), và đặc biệt là ngữ pháp đơn giản.

Không chỉ chia sẻ các đặc trưng ngôn ngữ, người Việt hiện đại còn có những kết nối lịch sử với các nhóm người sử dụng ngôn ngữ Mon-Khmer ở Đông Nam Á. Ví dụ văn hóa tiểu quốc và nghệ thuật chiến tranh của người Chàm đã góp phần tạo ra triều đại Tây Sơn với các đội tượng binh, súng hỏa châu và đặc biệt là kingship của Tây Sơn hoàn toàn khác biệt với nhà Lê (trước đó) và nhà Nguyễn (sau đó). Kingship độc đáo của Tây Sơn là lý do chủ yếu dẫn đến việc họ, lần đầu tiên trong lịch sử, chia nước ta thành ba tiểu quốc, sau là ba kỳ.

10/13

Trong suốt 900 năm “bắc thuộc” kể từ thời Mã Viện, cư dân đồng bằng sông Hồng sông Mã sông Cả bị giằng co giữa hai nền văn minh Trung Hoa (mới mẻ, nhưng là kẻ đô hộ – trực trị) và Ấn Độ (lâu đời, nhưng gián tiếp). Một bên với là nhà (Triệu Tần Hán) Đường. Bên kia là các Đế chế Chola tồn tại từ thế kỷ 7 trước công nguyên đến thế kỷ 13 Công nguyên.

Đế quốc cổ Chola rất mạnh về hàng hải, họ xây dựng các tuyến thương mại từ nam Ấn Độ qua biển Thái Lan và biển Đông để đến Trung Hoa. Ở thế kỷ 3 trước Công nguyên vua Ashoka Đại đế của Chola đã bảo trợ cho vô số các đoàn truyền giáo (Phật giáo Ấn độ) đi qua Sri Lanka, qua các vùng đất của người Môn ở Burma/Myamar để vào Đông Nam Á.

Họ hỗ trợ Khmer xây dựng đế chế hùng mạnh ở Siem Riep. Họ cũng dùng hải quân để tấn công vương quốc Srivijaya (ở vùng đất nay là đảo Sumantra của Indonesia). Các tuyến đường biển mậu dịch này cũng là các tuyến hải hành mà Mã Viện sử dụng để đưa quân đội của mình xuống đàn áp Hai Bà Trưng, cướp biển Côn Lôn và Đồ Bà (Java) từ phía nam ngược lên quấy rối An Nam Đô Hộ Phủ (thế kỷ 8), hay Lý Thường Kiệt xuống đánh Chiêm Thành.

Cả hai tuyến đường biển (mậu dịch) và đường bộ (truyền giáo) đều có một terminal quan trọng: Đô thị cổ Luy Lâu bên bờ Sông Hồng. (Khoảng 8000 năm trước, nước biển cao hơn bây giờ rất nhiều, và đến thời kỳ vàng son của Luy Lâu/Văn Lang thì đô thị này không quá xa cửa biển.)

Sau khi nhà Hán tấn công Nam Việt của Triệu Đà, Luy Lâu trở thành đô thị thương mại, chính trị, tôn giáo và tri thức quan trọng nhất của Giao Chỉ và sau này là châu Giao (Giao Châu) rộng lớn kéo từ các vùng đất Quảng Tây xuống tới Nhật Nam. Khi Long Biên dần trở thành thủ phủ quan trọng hơn của châu Giao, Luy Lâu chuyển thành trung tâm Phật giáo. Phật giáo Theravāda từ Sri Lanka đến Luy Lâu trước và trong giai đoạn này. Cảng thị Cattigara mà phái đoàn La Mã ghi chép (Ptolemy) thường được cho là Óc Eo, nhưng có thể nó là Luy Lâu thì hợp lý hơn, dù rằng Óc Eo của vương quốc cổ Phù Nam cũng là cảng thị quan trọng mà các thuyền buôm (hồi đó phải đi các chặng ngắn ven biển) phải ghé chân. Đây cũng là giai đoạn Lâm Ấp chiếm Nhật Nam và bắt đầu gây áp lực lên đồng bằng sông Hồng sông Mã lúc này bắt đầu tương đối tự do (hơn 100 năm) do biến động ở Trung Hoa tạo điều kiện cho bà Triệu khởi nghĩa ở Cửu Chân.

Người Môn, ở vùng đất nay là Myamar, cũng là một dân tộc phiêu lưu và giỏi thương mại, họ xây dựng các thành bang (city-state) dọc duyên hải và phiêu lưu xuống phía Nam đến các vùng đất nay là Cambodia  và Thái Lan. Vương quốc hùng mạnh nhất của họ là Vương quốc Thaton bên bờ biển. Họ cũng băng qua núi để đến các thương cảng bên bờ sông Hồng và hướng ra biển, nơi họ có thể tiếp tục buôn bán lên các thương cảng hướng về phương bắc: Vân Đồn và Canton. Cho đến thể kỷ 9, trước khi Việt Nam lần đầu tiên giành độc lập, người Môn còn sống ở vùng núi phía Bắc đồng bằng Bắc Bộ.  

Đế chế Khmer khi ở đỉnh cao của nó có quyền lực bao phủ hầu hết bán đảo Đông Dương, đô thị lớn nhất của nó là Angkor Thom (nghĩa là Đại Đô Thị) từng là đô thị đông dân nhất thế giới. Vua Jayavarman II (quê ở vương quốc Chenla), người đặt nền móng cho đế chế này, được cho là từng “du học ở Java” trước khi quay về kiến thiết đế chế. Gần đây người ta cho rằng Java đó thực ra là nước Chàm. Chàm cũng là dân tộc sử dụng ngôn ngữ Mon-Khmer, mẫu hệ, đi biển giỏi, có nghệ thuật thủy chiến thuộc loại đỉnh cao bấy giờ, thành thạo tượng binh và biết xây dựng kỷ luật quân đội. Tinh hoa của nghệ thuật quân sự Chàm sau này được đế chế Khmer, nhà Trần, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn tiếp thu triệt để.

11/13

Nhưng các công cuộc Ấn hóa qua đường bộ hay đường biển đều thất bại. Cư dân sông Hồng không chỉ cứng cỏi và bền bỉ chống lại Hán hóa, mà trước đó họ đã từ chối văn minh Ấn độ, dù nền văn minh này đã có lúc đến sát phía Nam của Nhật Nam.

Sơn Tinh Thủy Tinh là câu chuyện mà thông điệp của nó không thể rõ hơn được nữa: người Lạc ở Phong Châu từ chối hôn phối với văn hóa Ấn, họ khư khư văn hóa bản địa, sản vật bản địa, và bám chặt lấy sông núi bản địa mà sống. Họ từ chối văn hóa phiêu lưu hàng hải, họ từ chối viễn chinh đường biển. Vua chỉ thích gả con gái cho giai làng, vì bản thân họ cũng chỉ thích ở sau lũy tre làng. Còn thủy tinh tóc xoăn mắt trắng da ngăm đến từ cửa biển tuy rất khát khao một sự định cư và hôn phối, sau nhiều lần cố gắng, vẫn ngậm ngùi ra đi.

Mọi thứ cứ vậy cho đến khi người Hán và sau này là người Pháp tràn đến.

12/13

Thế nhưng hai ông vua quan trọng nhất trong giai đoạn giành độc lập, Phùng Hưng và Ngô Quyền, lại sinh ra ở vùng đất đậm chất Chàm/Khmer với các công trình bằng đá ong, với tượng binh (nay vẫn còn rặng duối buộc voi) và nghệ thuật thủy chiến (am hiểu đường thuỷ, hiện tượng bán thuỷ triều độc đáo ở cửa sông Bạch Đằng và nay vẫn còn những hàng cọc bịt đồng).

Khi Phùng Hưng qua đời, người Việt, có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử, sử dụng từ Vua (Bua) là một từ có gốc pro Tai-Kadai ở vùng núi phía bắc để chỉ một status tương đương với Vương của người Hán, với ý chí quyết phân định vua của đất này không phải là vương đến từ đất Hán. Nó cũng là thông điệp phản kháng lại những trí thức Việt đương thời muốn nhận Sĩ Nhiếp là bậc Vương đầu tiên của đất Việt; cũng như xa hơn nữa là Triệu Đà.

Những ông vua “bản địa” đầu tiên này của dân Việt còn có một đặc điểm quan trọng, họ sinh ra từ những gia đình “pagan”, tức là ngoại giáo. Họ đứng bên ngoài các thế lực và dòng chảy tôn giáo quan trọng, bất kể là Nho, Đạo, Lão hay Phật.

13/13

Dân tộc việt và quốc gia Việt không emerge hay split từ đế quốc Đường khi đế quốc này trên đà tan rã. Nó vừa emerge vừa split. Nó emerge từ các biến động nội tại trong lòng đế quốc, vừa split về phương Nam do chịu sức kéo ngầm, nhưng bền bỉ và mãnh liệt, từ trong gene Đông Nam Á có sẵn trong dân Việt. Nó bắt đầu từ vùng đất mà nhìn từ Hán Đường là vùng biên viễn: Nhật Nam, nơi tiếp giáp với đất của người Chàm. Không phải vô cớ khi vùng sông Gianh, Ba Đồn được coi là cái nôi của người Việt hiện đại.

Sự ra đời của dân tộc và nhà nước Việt phải trải qua rất nhiều thăng trầm, với những đợt nổi loạn ngắn hạn chống bá quyền phương Bắc của bà Triệu, Lý Bí, Mai Hắc Đế. BirthRebirth of nation của giai đoạn này chỉ nằm trong khuôn khổ của khái niệm “ethnic notion of nation” như cách mà Snyder diễn đạt. Phải đến thời Khúc Thừa Dụ nước Việt Nam với cách hiểu hiện đại là một nation, có biên cương bờ cõi, có quốc chủ, quốc dân, mới thực sự và từ từ hiện ra. Chính là lúc emergence và split xảy ra cùng một lúc. Khúc Thừa Dụ xây dựng nước Việt như một nation mà có thể sử dụng lời của Snyder để kết luận: một nation như là một hành động chính trị hướng về tương lai (anation as a political act toward the future).

Cập nhật (tháng Sáu năm 2025)

Trong thế giới ngày nay  tiếng Anh được coi như một “lingua franca” tuyệt đối chiếm ưu thế. Nó được dùng trên khắp thế giới, thực cũng như internet, trong mọi lĩnh vực từ giáo dục, thương mại, ngoại giao, luật, công nghệ… đến văn hoá, giải trí. Nhưng trước đó, tiếng Anh từng “chỉ là” lingua franca của khoa học, công nghệ và thương mại.

Nhưng ở thời kỳ Đồ Đồng, ở vùng đồng bằng sông Hồng sông Cả thì sao?

Dòng chảy thương mại (chuyển giao công nghệ) mang công nghệ đồ đồng cùng với nguyên liệu (quặng đồng chất lượng cao) đến với vùng đất mà sau này được gọi là Văn Lang tương đối sớm. 

Văn Lang, lúc đó là một vương quốc nhỏ, thuần chủng, và rất giàu có. Bởi giàu có nên họ có thể nhập khẩu công nghệ và vật liệu đúc đồng (bên cạnh đó là công nghệ gốm). Ngôn ngữ giao tiếp chung (lingua franca) lúc này là proto Kra-Dai.

Dân Văn Lang giàu có và phân chia đẳng cấp. Tầng lớp trên ở những ngôi nhà sàn lớn, có nhiều dụng cụ bằng đồng. Nhưng nhiều nhất là trống đồng, mũi tên đồng, và mũi giáo đồng. Họ dùng thuyền lớn để đi thu tô. Thuyền cũng là đồ mai táng (sau này gọi là mộ thuyền). Hình ảnh nhà cửa, vũ khí, trống của họ vẫn còn trên hoa văn và hoạ tiết trống đồng của một nền văn hoá Đông Sơn. 

Những người dân ngoại đến với dân Văn Lang gọi vùng đất này là *Cəˀbáːnʔ (nghĩa là cái làng) có nhiều *ljaːk (nghĩa là nhà). Hai từ này sau này được ký âm qua tai người Hán Cổ thành văn tự Hán là 文郎. Rồi sau này được phiên ngược ra Annam Middle Chinese, rồi dần thành Hán Việt, đọc là Văn Lang. Truy ngược lại nó sẽ là  *Cəˀbáːnʔ *ljaːk, theo âm hiện đại ở Lào và Quảng Tây  vẫn dùng, nó sẽ là Bản Lạc (Bản của những Ngôi Nhà).

Âm *ljaːk, đọc là Lạk cũng lại bị phiên nhầm qua Hán cổ là . Nên gây nhầm lẫn, tưởng là tên tộc người (người Lạc, ruộng Lạc, Lạc Vương, Lạc Hầu, Lạc Tướng.) 

Nước Bản Lạc (làng của những ngôi nhà sàn lớn), sau bị gọi nhầm là Văn Lang, đầu tư rất nhiều của cải vào công nghệ vũ khí bằng đồng, họ chớm đạt được công nghệ rèn sắt (nay vẫn còn dấu vết) thì suy tàn do chạy đua vũ trang dẫn đến sụp đổ mô hình kinh tế lúa nước và xuất khẩu sản phẩm gốm, đồng theo đường biển xuống phía nam. Dấu vết của thương mại đường biển ấy kéo dài đến hết thời Chàm thịnh vượng. Còn lingua franca của giai đoạn ngoại thương ấy là thứ tiếng bây giờ gọi là Classical Malay, mà dấu vết vẫn còn ở các địa danh cửa biển.

Ngày nay các ngôn ngữ ảnh hưởng của Proto Kra Dai như Lào vẫn dùng từ Bản (để chỉ Làng), hoặc một ngôn ngữ khác cũng chịu ảnh hưởng của proto Kra Dai là tiếng  拉珈语 (tiếng Lạp Gia) ở huyện người Dao Kim Tú trong khu tự trị người Choang (người Tráng, nói tiếng Tráng) Quảng Tây vẫn dùng từ Lạk để chỉ ngôi nhà lớn.

Khi nền kinh tế sụp đổ kéo theo suy tàn về quân sự, người Âu kéo đến thôn tính bằng các phương tiện phi quân sự. Họ dựng một huyền thoại để gắn kết dân tộc, và hình thành nhà nước Âu Lạc. Người Âu là một phần của Bách Việt nên họ gán cho người Lạc thêm chữ Việt, thành Lạc Việt. 

Khi người Việt (của Đại Việt mà nguồn gốc phải là người Lạk) bành trướng về phía Nam, bỗng nhiên người Việt của Đại Việt cảm thấy dân tộc mình chia thành hai nửa: Đàng Trong và Đàng Ngoài. Họ lập tức thêu dệt một truyền thuyết dùng để tuyên truyền gắn kết dân tộc bất kể Đàng nào, chính là Hồng Bàng Thị trong Lĩnh Nam Chích Quái. Một lần nữa, một huyền thoại lớn, do con người bịa ra để phục vụ mục đích chính trị. Tất cả chúng ta đều từ một bọc (đồng bào) từ một cái tổ chung (Hồng Bàng). Người Việt là chim, sinh ra từ trứng, chung một tổ, và các vật tổ của đất Bắc đều là chim hoặc cá sấu. Thế kỷ 20 không sinh ra huyền thoại nào về nguồn gốc dân tộc nhưng trước là Ngô Đình Diệm sau là VN thời kỳ hậu đổi mới đã cố gắng tuyên truyền và promote Giỗ Tổ (Hùng Vương) lên thành quốc giỗ, cho một đất nước ngoài người Kinh (Keo) ra còn vô số các dân tộc khác. 

Hình đại diện của Không hiểu

About Blog của 5xu

Ti hí nhìn đời
Bài này đã được đăng trong Uncategorized. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.