Đế quốc La Mã trở thành siêu cường thời cổ một phần lớn là do sở hữu quân đội hùng mạnh. Quân đội La Mã hùng mạnh nhờ một phần vào vũ khí công nghệ cao, nhưng rất thú vị: bí quyết công nghệ và kỹ thuật sản xuất có thể dễ dàng chuyển giao cho các xí nghiệp nhỏ ở các làng mạc, tức là các nhóm thợ tay nghề cao. Các nông dân Rome, kể cả phụ nữ, có thể tham gia rèn các mũi nhọn để gắn vào ngọn giáo, thuộc da và chế keo dán, làm dây bện dùng vào việc khâu, dán, ghép các tấm da vào khuôn gỗ tạo thành những tấm khiên nhẹ nhưng chắc chắn. Tương tự như vậy là chế tác các cánh cung lớn (ghép gỗ) và khoẻ, dây cung cực chắc. Nhờ sản xuất vũ khí được đưa xuống quy mô tư nhân nhỏ, thay vì phải làm trong công xưởng của đế chế, quân đội La Mã có vũ khi nhanh, tốt và rẻ để đưa vào sử dụng.
Những xưởng chế vũ khí nông dân này về sau chuyển biến thành kỹ thuật dân sự, nông dân làm vũ khí trở thành các nghệ nhân và thợ thủ công làm đồ da, đồ gỗ, làm thợ rèn, thợ khâu. Ở thời cổ ấy đem so với ngày nay thì các nghệ nhân là các nhà khoa học nắm bí quyết công nghệ, còn thợ lành nghề là các kỹ sư.
*
Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo sau khi vai trò cảng thị thương mại và thủ đô hành chính (của châu Giao rộng lớn) dần mất vào tay Long Biên.
Khảo cổ của Nishimura năm 2014-2019 tìm thấy các khuôn và phễu đúc đồng (niên đại thế kỷ 4) cho thấy ở Luy Lâu có đúc đồng. Nhưng nghề đúc đồng ở Bắc Ninh không còn dấu vết. Đó là do khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, các nghệ nhân đúc đồng, tức là các kỹ sư nắm công nghệ cao để sản xuất vũ khí thời đấy, bị kéo về Thăng Long.
Nhưng các làng nghề thủ công khác của họ không mất đi, và còn đến ngày nay. Một trong những ngón nghề xuất sắc nhất của Bắc ninh, trong nghề thủ công, là thêu rút sợi, nay chỉ còn dùng trong các sản phẩm thời trang cao cấp (và đang dần mai một). Nghề thêu này là một chút di sản còn sót lại của thuỷ xưởng nhà Lý, nơi nhưng nông dân khoẻ mạnh và khéo léo nhất của xứ Dâu Keo (Luy Lâu) Thuận Thành được tuyển về để khâu cánh buồm.
Chữ” buồm”, theo John Phan, là một từ Hán Việt sơ kỳ (Hán Việt cổ).
Từ “chài”, trong “xóm chài”, “vạn chài”, có thể là từ tiếng Phạn-Chàm “jala” có nghĩa là lưới (trong tiếng Việt vậy là có láy đẳng nghĩa chài-lưới.)
*
Đô thị Luy Lâu cổ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ 3) nằm ở một đồng bằng mini cực đẹp, kiểm soát toàn bộ đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình. Dựa vào hệ thống sông ngòi cổ dày đặc, từ Luy Lâu dễ đi đường sông lên phía Bắc, dễ đi ra biển phía Đông (rồi ngược lên Quảng Yên/Quảng Ninh, rồi Quảng Đông; hoặc men theo bờ biển mà xuống Chàm, hoặc đi về phía Nam Đảo).
Luy Lâu là một cái thành nhỏ, diện tích chắc chỉ bằng khu uỷ ban xã ở một huyện xa bây giờ. Phía bắc của thành là con sông Đuống chạy ngang (Tây Đông), bên cạnh thành là con sông Dâu (một con sông cổ) chạy dọc xuống (Bắc Nam). Thành ở bên tả ngạn. Dọc theo bờ sông, kéo dài khoảng hơn một cây số, là thành Luy Lâu, chùa Dâu, (nay còn chợ Dâu), đối diện bên kia sông (hữu ngạn) là Hà Mãn.

Mãn Xá (kẻ Mèn), khu phố thuộc Hà Mãn, là nơi phát tích Man Nương, mà truyền thuyết (chắc mới được bịa ra thời Lý, tức thế kỷ 11) kể một câu chuyện về tận thời Sĩ Nhiếp, trong đó Man Nương (nhờ qua tay một kẻ quyền thế là Sĩ Nhiếp) gián tiếp sinh ra Tứ Pháp và do đó trở thành Phật Mẫu. Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện được thờ ở các chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn.
Nhà của Man Nương nay là chủa Tổ.
Gần đấy, là nơi người ta mới tìm ra con thuyền cổ Bắc Ninh (2025).
*
Khi Lê Hoàn, một ông tướng chẳng may chén được vợ vua (hoặc cố ý chén để dễ bề hợp thức hoá) và thành vua, ông đã làm hai việc quan trọng: cải cách quân đội (thành chính quy) và cách mạng công nghệ sản xuất (đắp đê trị thuỷ phục vụ nông nghiệp).
Nhưng phải đến thời nhà Lý, với ba ông vua đầu tiên lên ngôi khi đã là người lớn, có học, có tầm nhìn, có tư duy kiến quốc thì nước ta mới có thêm giáo dục, hành chính, ngoại thương, xây dựng hạ tầng (làm đường, đào kênh), quản lý dân số, phân bổ lao động, hợp pháp hoá tư hữu cho giới quý tộc và đánh thuế (cho phép quý tộc, tuỳ cấp, được quyền thu các loại thuế khác nhau.). Nhà Lý cũng có ý thức rất mạnh về vị thế quốc gia, họ đổi tên nước thành Đại Việt, xây dựng quân đội hùng mạnh để chinh phạt mở mang bờ cõi (Chàm), khống chế lân bang (Xiêng Khoảng), khuất phục các thủ lĩnh miền cao.
Ngoại thương cho đến trước thời Lý chỉ có đô thị cổ Luy Lâu là mạnh nhất, nơi các thuyền buôn từ phía Nam (Java, Thái, Chàm hoặc từ rất xa như La Mã) tụ đến. Qua thời Lý, thì Vân Đồn dần là thương cảng lớn, thay thế cho Luy Lâu. Người Việt ở Vân Đồn (Quảng Yên) biết đón tàu của người Chàm, lấy sản vật của họ buôn vào nội địa, hoặc mang sang Ung Châu bằng thuyền chở hàng.
Những cái thuyền chở hàng ấy, đóng ở Mãn Xá, bên bờ sông Dâu.
*
Dân Dâu Keo (Luy Lâu) từ sớm đã giao tiếp với dân đi biển gốc Nam Đảo và do đó quen thuộc với các tàu buồm hai đáy (hai thân, hai lòng, lưỡng phúc – twin hulled). Loại thuyền này rất quen thuộc với dân đi biển khắp các đảo Thái Bình Dương, mà ở gần ta nhất là vùng Nam Đảo.
Chạy bằng buồm, có thể đi ngược gió, khó lật dù đáy thuyền nông, nên loại thuyền hai đáy dễ dàng vượt biển. Do đáy nông, nó dễ dàng đi vào cửa biển, ngược các sông lớn, phụ lưu, chi lưu và vào đến tận sông Dâu (một con sông nhỏ) rồi cập bến Luy Lâu.
Người dân Dâu Keo bên bờ hữu sông Dâu, nơi xóm nhà Man Nương (quen thuộc với thân gỗ trôi sông chứa người giống như độc mộc phảng phất thông điệp qua truyền thuyết), dần học được nghề vá buồm, sửa thuyền và cuối cùng là có nghề đóng thuyền hoàn chỉnh.
Khi vua Lý mở thuỷ xưởng đóng thuyền xây dựng hải quân, Mãn Xá (kẻ Mèn) được chọn.
*
Thời Lê Hoàn hải quân Chàm đã đủ mạnh để theo Ngô Nhật Khánh kéo ra đến cửa Thần Phù để đánh vào Hoa Lư (năm 979). Mấy năm sau để chuẩn bị chinh phạt Chiêm Thành, Lê Hoàn mới cho đóng chiến thuyền. Thuỷ xưởng manh nha hình thành ở Luy Lâu gần quê gốc của tướng Lý Công Uẩn, về sau là vua đầu tiên nhà Lý.
Thời vua đầu nhà Lý là Lý Công Uẩn các cuộc chinh phạt ít dùng hải quân. Năm 1011 ông mang một đội quân lớn đi dẹp loạn ở Thanh Nghệ, chiến dịch kéo dài hai năm và rất tàn bạo. Lúc về ông mới dùng đến thuyền và gặp bão.
Đến vị vua thứ hai là Lý Phật Mã, ở giai đoạn cực thịnh 1042-1044 (Minh Đạo), nền kinh tế của ông vua này mới đủ sức xây dựng hạm đội biển có thể triển khai quân xa Thăng Long cả ngàn cây số. Đây là giai đoạn thuỷ xưởng bên sông Dâu được đầu tư mạnh mẽ nhất. Chiến dịch bình Chiêm năm 1044 thì hải quân nhà Lý đã tương đối mạnh, đủ chở đội quân đủ lớn đi từ cửa biển Đại Ác đến Tư Dung, dàn quân lên bộ tràn vào giết ba chục ngàn người Chàm, bắt về năm ngàn người.
Đến năm 1069 thì hải quân của ông vua thứ ba là Lý Nhật Tôn có tới 200 thuyền đi đánh Chiêm, kéo dài mấy tháng, phá hàng ngàn căn nhà của họ, bắt về được năm vạn người (lúc về chắc phải dùng thêm thuyền chiếm được của Chàm). Tướng chỉ huy của chiến dịch này là Lý Thường Kiệt. Đến năm 1075 Lý Thường Kiệt dùng chính lực lượng hải quân này đánh đến tận châu Ung (Nam Ninh).
*
Thuỷ xưởng Mãn Xá (kẻ Kèn) không chỉ đóng tàu chiến mà còn đóng tàu riêng cho các gia đình quý tộc. Họ dùng để đi thu thuế và đi lại như đại gia ở Vn đầu thế kỷ 20 tậu xe hơi đi thu tô.
Đến thời vua thứ tư trở đi, đất nước kinh tế phát triển, xã hội thanh bình, giới quý tộc bắt đầu giàu có đua nhau đóng thuyền riêng (một thú vui xa xỉ hồi đó). Thuyền để đi công tác đặc biệt, liên lạc giữa các phe phái cát cứ vào cuối thời Lý (chính trị suy tàn, thái tử Lý Sảm tự chiếm đất quy tụ các hào trưởng địa phương lập triều đình).
Không có thuyền riêng nên tướng Phạm Du, phải đợi người đưa thuyền đến đón đi đàm phán , đợi lâu nên tranh thủ giao hợp với công chúa Thiên Cực, lỡ thuyền nên bị bắt giết (1209).
Phe bên kia có Tô Trung Từ về sau thống nhất được lực lượng, lại dính phải công chúa Thiên Cực, đang giao hợp với cô này thì bị chồng bắt tại trận giết luôn (1211). Gia đình Tô Trung Từ biết là toang cả nhà, may mà có thuyền nên trốn được.
*
Phạm Du là tướng, tham nhũng rất mạnh tay, nhưng keo bo, toàn đi nhờ thuyền người khác, mãi mới chi tiền đặt thuỷ xưởng làm thuyền riêng, đang làm dở thì chết.
Không ai chi tiền làm nốt nên con thuyền hai lòng của Phạm Du dở dang nằm bên bờ sông Dâu. Năm 1214 đất nước loạn lạc, các sứ quân đánh lẫn nhau, Trần Tự Khánh đốt Thăng Long đưa vua trốn xuống Hà Nam. Khu công nghiệp và thương mại Luy Lâu suy tàn. Vùng đất ven sông Dâu này dần bị bồi lấp. Thuỷ xưởng trở thành xưởng gốm, rồi thành chợ, rồi thành khu dân cư. Con sông cổ cũng chết mòn.
*
Con thuyền Phạm Du vẫn nằm đấy. Cho đến gần đây nó bất ngờ hiện ra như một chỉ dấu mong manh cho ta biết vùng đất này xưa đã từng có một thuỷ xưởng đóng hạm đội Lý Thường Kiệt.
*
Thương cảng quốc tế Vân Đồn (đảo Quan Lạn) góp một phần rất lớn đưa Đại Việt nhà Lý trở thành một đất nước: giàu có, đa dạng văn hoá, tiến bộ về công nghệ, nhưng thiếu nhân lực trình độ cao (như Singapore bây giờ).
Nhà Lý giàu có, nếu ta nhìn vào cống vật mà nhà Lý dâng cho nhà Tống, rất nhiều thứ quý giá, mà phần nhiều là nhập khẩu, từ tận vùng đất mà nay là Trung Đông.
Họ xuất khẩu qua Tàu rất nhiều… ngựa. Đại Việt không có ngựa, mà ngựa là do quân đội nước ta, kể từ thời Lê Hoàn đến ba đời vua đầu tiên nhà Lý, thường xuyên đánh lên mạn ngược để cướp ngựa của các thủ lĩnh miền sơn cước. Sau này, khi nhà Lý vững mạnh, những lúc khoan hoà thì họ dùng muối để đổi lấy ngựa rồi xuất qua Tàu, thay vì cướp. Muối được làm ở vùng nay thuộc Thái Bình (Hưng Yên).
(Theo sách Lĩnh Ngoại Đại Đáp: 嶺外代答), thì ở chiều ngược lại, kinh tế phát triển dẫn đến thiếu lực lượng lao động trầm trọng, nên nhà Lý phải mua rất nhiều nô lệ do bọn buôn nô lệ Tàu bắt ở Đại Lý (Vân Nam) bán xuống Đại Việt. Cùng với nô lệ Tàu là dân nhập cư từ vùng duyên hải bên Tàu tự di cư xuống Đại Việt. Theo Li Tana, thì một người nô lệ ấy sau khi Đại Việt mua, lại bán xuống nước Lâm Ấp, ông này sau đó làm vua Lâm Ấp ở Khu Lật nay là vùng Thành Lồi, Huế. Ông này tên Tàu là Fan Wen (Phạm Văn). Đây chính là ông vua xin Đông Tấn cho sáp nhập Nhật Nam và một phần Cửu Chân vào Lâm Ấp. Còn dân nhập cư vào Đại Việt, có một dòng về sau cực kỳ hoành tráng là dòng Mạc Đăng Dung, vốn là dân tộc cổ rất giỏi đi biển ở Quảng Đông, Phúc Kiến là dân tộc Tanka (Dan). (Dân tộc này ngày nay gần như không còn nữa.)
Các nhà buôn Trung Đông và Nam Á buôn ngược lên Đại Việt (Vân Đồn) không chỉ hương liệu, mà còn buôn cả vàng và đồng. Họ buôn cả nô lệ mà họ bắt ở các đảo phía Nam lên. Những sản vật ấy và nô lệ ấy được chuyển tiếp qua Tàu, nô lệ được gọi là Côn Lôn Nô.
Các đại quý tộc nhà Trần như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều biết nhiều ngoại ngữ, thậm chí có thể nói được cả tiếng Trung Đông và Ả rập (Li Tana nói vậy). Ngày lễ hội họ mặc trang phục vải trắng, múa hát điệu Hồi. Đó là nhờ Thăng Long từ nhà Lý là một đô hội cosmopolitant tầm cỡ khu vực, thu hút và hấp thụ đủ các dòng văn hoá. Người Hồi (Trung đông ở đây khá nhiều) đến mức nhà Nguyên (Mông) còn gửi thư cho nhà Trần xin được tiếp cận để tìm hiểu (nhưng nhà Trần trả lời là có người Hồi mà thế qué nào hôm qua chết hết cả.) Có thể suy đoán người “Hồ” (vốn đã xuất hiện ở Luy Lâu thời Sĩ Nhiếp, đến từ Ả rập Ba Tư, trước khi Islamic World hình thành) đã sống thành cộng đồng ở Thăng Long. Họ mang đến đây y học, thiên văn học, công nghệ làm giấy (còn đến tận ngày nay là giấy dó Bắc Ninh), làm đại bác (sau bị bắt sang Tàu, di sản còn lại là pháo Đồng Kỵ Từ Sơn, Bắc Ninh) và súng hoả hổ của quân đội Tây Sơn.
Cuối Trần, nho giáo tràn vào, dần trở thành ý thức hệ chính thống, đa dạng văn hoá và tôn giáo ở Đại Việt lụi tàn. (Xem “Hà Ô Lôi là ai”).
Nhà Lý giàu có và dung hợp đa dạng nhân tài, văn hoá, tôn giáo và ý thức hệ, chính là “thể chế dung hợp” mà nay ta hay nói tới.
*
Cảng thị Vân Đồn, và cùng với nó là xưởng đóng tàu Luy Lâu của nhà nước, chỉ hình thành sau khi nhà Lý nắm quyền quốc chủ. Nhưng tại sao?
*
Li Tana, trong nghiên cứu năm 2006 “A View from the Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnamese Coast” có một số phát kiến quan trọng (mà sao ko mấy ai để ý) về giao thương hàng hải ở vùng biển Đại Việt hồi VN manh nha lập quốc quãng 1200 năm trước.
Nếu ta xem bản đồ cổ của dân đi biển phương Tây, ta sẽ thấy vùng biển quãng Đà Nẵng bây giờ họ gọi là Sea of Champa (biển Chàm). Còn tài liệu đi biển của Tàu nhắc đến một vùng biển khác là Giao Chỉ Dương. Biển Giao Chỉ nằm ở quãng Nghệ-Tĩnh, tức là trên biển Chàm ngày xưa và dưới vịnh Bắc Bộ ngày nay.
Tuyến đường biển mà các thuyền buôn từ Trung Đông, Temasek (Singapore) đi đến biển Giao Chỉ đã có từ xưa. Thương cảng lớn nằm ở các cửa biển Nghệ An Hà Tĩnh. Đây là cái hub ngoại thương lớn (như Singapore bây giờ) kéo dài hàng trăm năm, nó kết nối ngoại thương hàng hải từ phương Nam lên với các tuyến thương mại đường bộ tới bắc vươn quốc Chen La (sau này là vương quốc Bassac, nằm giữa Lào và Cam bây giờ), với đồng bằng Bắc Bộ, và ngược lên Tàu.
Nhưng sao họ không đi đường biển lên vịnh Bắc Bộ rồi qua vùng duyên hải của Tàu? Đó là vì tuyến đường biển từ Tàu xuống biển Đông hoàn toàn không có, cho đến thời Cao Biền. Sau khi Cao Biền khai thông tuyến này, thì duyên hải Tàu mới kết nối với duyên hải Bắc Bộ qua đường biển. Nghệ An Hà Tĩnh dần dà mất đi vai trò ngoại thương do thương thuyền đi vào cửa biển mới là Bạch Đằng.
Cao Biền đến Đô hộ phủ để củng cố chính quyền thuộc địa ở đây, đồng thời chống nạn Nam Chiếu. Chính quyền đô hộ lúc bấy giờ suy yếu, thành Đại La bị Nam Chiếu tấn công ba bốn lần, có lần chiếm hai năm. Nam Chiếu tấn công đô hộ phủ là động tác gây rạn nứt, dần dần khiến vùng đất này tự chủ, rồi độc lập. Cao Biền khai thông tuyến hàng hải đi từ Bạch Đằng, qua vịnh Bắc Bộ, lên vùng duyên hải Phúc Kiến Quảng Tây, giúp nhà Lý (rồi nhà Trần) của Đại Việt trở nên giàu có và hùng mạnh, đủ sức triển khai quân bằng đường biển lên tận Nam Ninh.
*
Đến thời Lý, lần đầu tiên trong lịch sử, nhà nước làm chủ được công nghệ đóng tàu, mở thuỷ xưởng Luy Lâu, tăng cường kiểm soát thuế, và thành lập thương cảng mới là Vân Đồn. Di sản Thuỷ Xưởng Luy Lâu còn sót lại, năm nay ta tình cờ tìm được ở Bắc Ninh, là một cái thuyền cổ, vốn là thuyền thu thuế và đi chơi, của một gia đình quý tộc nhà Lý.
*
PS 1: Trên các báo bắt đầu đã có các bài phân tích về con thuyền cổ Bắc Ninh (nhưng nên gọi là Thuyền cổ Luy Lâu, hoặc Thuyền cổ Dâu Keo thì đúng hơn). Một số phân tích đang cho rằng thuyền cổ Luy Lâu mới phát hiện (2025) có thể có từ thời Giao Chỉ do kỹ thuật đóng thuyền rất giống kỹ thuật đóng thuyền Đông Sơn mà giới khảo cổ đã từng thu thập.
Có thể đô thị cổ Luy Lâu, từ trước khi Sĩ Nhiếp đến, đã sầm uất đến mức Sĩ Nhiếp phải chọn nơi này làm “kinh đô” chứ không phải ngược lại. Ở đó có thể đã có xưởng đóng thuyền, xưởng may buồm, xưởng đan lưới, lớp dạy navigation hàng hải xưởng làm lương khô cho người đi biển. Các xưởng này, có thể được dân đi biển từ phía Nam Đảo lên truyền nghề (do họ ở lại và lập gia đình ở Luy Lâu). Kháng cự tâm lý của đàn ông bản địa chỉ quen thuộc lẩn quẩn núi non với đàn ông từ biển khơi đến định cư vẫn còn tàn tích trong truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh.
Khác với thuyền độc mộc Đông Sơn của người Việt, dù cách vào mộng, dựng khung giống nhau, thì thuyền hai lòng (hai thân) của thuỷ xưởng nhà Lý không chỉ khác về kỹ thuật dựng vách thuyền (vách cao hơn, lòng thuyền sâu và rộng ngang hơn) mà còn ở kết cấu dựng lên được một cánh buồm lớn có thể điều khiển được. Ngoài ra, kỹ thuật hải hành (mà các vua Lý hành quân xuống biển Chàm, hay Lý Thường Kiệt hành quân lên biển Quảng Đông) là kỹ thuật khác hẳn với đi trong hệ thống sông Hồng, sông Mã và sông Thái Bình, hay chỉ đi ven các cửa biển. Navigation chẳng hạn, đi biển phải dựa vào hệ thống sao, thay vì nhớ địa hình hai bên bờ. Đi biển còn cần có các kỹ thuật làm lương khô, trữ được lâu ngày. Công nghệ sản xuất lương khô thời Lý chắc chắn đã đủ quy mô để cung cấp lương khô cho một hạm đội chinh chiến xa nhà dài ngày. (Dù những người lính ngày xưa đều là dân thạo săn bắn, đánh cá, làm ruộng, đi đến đâu họ cũng có thể xoay xở lương thực ở đấy, nhưng một đội quân lớn như của Lý Thường Kiệt, hẳn phải có quân lương.)
Tuy nhiên đợi cuối tháng tư sẽ có kết quả xác định niên đại bằng đồng vị các bon.
*
PS 2:
Tên nước Việt Nam, tại sao nên đổi
Trong cuốn sách nghiên cứu về đàm phán phân định biên giới Minh (Tàu) – Đại Việt (từ Hồ-Lê-Mạc-Lê) có tên là “Ming China and Vietnam: Negotiating Borders in Early Modern Asia”, tác giả Kathlene Baldanza dành nguyên phần giới thiệu để nói về tên nước ta. Phần này có tên: “Introduction: The power of names”.
Đại khái khi Gia Long thành lập một quốc gia mới bên bờ biển Đông, tức là nước ta ngày nay, ông phải gửi sứ giả qua gặp nhà Thanh để xin được công nhận chính thức. Ông xin đặt tên nước là Nan Yue, tức là Nam Việt.
Vua Thanh lúc đó là Gia Khánh, lập tức phản đối và cử quân đội đến biên giới. Vì Gia Khánh cho rằng Nam Việt là quốc gia cũ, kéo dài từ đồng bằng Sông Hồng lên hết Lưỡng Quảng. Một kẻ tiểu di ở biên viễn như Gia Long mà đặt tên nước như vậy là có ý đồ. Chưa kể Nam Việt còn có gốc từ nước Việt cổ ở bên Trung Hoa.
Sau khi bị từ chối, một mặt Gia Long doạ cắt quan hệ, một mặt vẫn cử sứ qua thuyết phục, rằng Nam Việt này khác, nó kéo dài đến đồng bằng Mekong. Đàm phán qua lại, thì compromise tên Việt Nam. Tức là chữ Nam, vẫn hàm ý cái nước này nằm ở phía Nam của đế quốc trung tâm thiên hạ (Trung Quốc). Tức là vẫn trong trật tự thế giới của Trung Hoa.
Đấy là Tây nó còn hiểu được như thế. Mà ta thì vẫn cứ tự hào “trai nước Nam”, “tiếng nước Nam”, “nước Nam ta văn hiến đã lâu”…
Cũng phải nhắc lại, là tên Việt Nam tồn tại rất ngắn, sau đó Minh Mạng đổi qua Đại Nam. Rồi Pháp chiếm, lại thành An Nam (là tên Gia Long muốn tránh hehe).
Tên Việt Nam chỉ trở lại khi các phong trào chống Pháp nổi lên. Nó được “chính thức hoá” khi người hùng Nguyễn Thái Học và các đồng chí của mình hô “Việt Nam vạn tuế” trước khi bị Pháp chém đầu ở Yên Báy. Tất nhiên, từ đó Việt Nam thành tên gọi nước ta của những người yêu nước. Nhưng trừ Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học là tự lực, thì các đảng khác vẫn dựa vào ngoại bang, nhất là dựa vào Tàu, không Tàu Tưởng thì Tàu Mao.
Nên Gấu nói đổi tên về Âu Lạc là cũng có lý.
Hôm nào mình sẽ giải thích thêm tại sao tòi ra thêm chữ Việt (trước đó Văn Lang, Âu Lạc, Giao Chỉ, Giao Châu làm qué gì có chữ Việt. Còn chữ Nam là sau này có do An Nam (phía Nam được bình an, tức là đã dẹp yên bọn nổi loạn chống Tàu ở đấy).
PS 3:
Lâm Đồng – Bình Thuận – Đắk Nông
Nhập ba tỉnh này lại về mặt lịch sử là đúng. Vì gốc đều thuộc Champa (Champa có duyên hải và cai quản cả vùng nay là Tây Nguyên). Đến khi bị Lê Thánh Tôn đánh thì họ còn lại hai nước là Nam Bàn và Hoa Anh. Là khu vực Lâm Đồng Bình Thuận Đắc Nông bây giờ. Sau này phần phía cao nguyên trở thành Tiểu quốc Jrai (hai nước Thuỷ Xá và Hoả Xá).
Đến thời Pháp họ lập ra Đồng Nai Thượng và Lâm Viên (Langbian tách ra từ Bình Thuận). Đến năm 1958 Ngô Đình Diệm sáp nhập hai tỉnh này mới đặt là Lâm Đồng (Lâm Viên và Đồng Nai). Không chỉ Langbian bị đổi thành Lâm Viên mà các địa danh khác theo tiếng dân tộc sau bị đổi, Djiring thành Di Linh, Blao thành Bảo Lộc vân vân…)
Tên Lâm Đồng như vậy là rất mới. Tên Tây Nguyên còn mới hơn (thời VNCH gọi là Cao Nguyên Trung Phần).
Cho nên các ý kiến chế diễu Lâm Đồng có biển (do nhập với Bình Thuận) là do ko nắm lịch sử ngày xưa.
Quận Ba Đình và Quảng Trường Ba Đình cũng gây hiểu nhầm. Ba Đình là tên mới, do lấy tên chiến khu Ba Đình ở Thanh Hoá thời Cần Vương chống Pháp (khởi nghĩa Đinh Công Tráng) đặt cho vườn hoa nơi Hcm đọc tuyên ngôn. Sau vườn hoa Ba Đình thành quảng trường, rồi thành tên quận, rất gần đây. Trong khi đó Ngọc Hà Hữu Tiệp (Trại Hàng Hoa), Đại Yên, Vạn Bảo, Giảng Võ… là đất cổ, thập tam trại (13 thôn) bên ngoài Thăng Long. Sắp tới sẽ là ba phường Ngọc Hà, Giảng Võ, Ba Đình.










Bạn phải đăng nhập để bình luận.