Tại sao Việt Nam chưa có Vương Hộ Ninh

Tại sao Việt Nam chưa có Vương Hộ Ninh (hoặc chưa xuất hiện Vương Hộ Ninh)?

Câu hỏi này cũng giống như câu hỏi tại sao VN chưa có Messi với Ronaldo. Nhưng cũng có thể có một số khía cạnh cụ thể, nhất là khía cạnh cá nhân, giải thích được việc tại sao Việt Nam chưa có Vương Hộ Ninh.

1.

Đầu tiên là giới. Ở Tàu học giới của họ có một nhóm gọi là các “công cộng trí thức phần tử”. Tức là các nhà trí thức phục vụ mục đích công. Vương Hộ Ninh thuộc giới này. Việt Nam không có nhóm này. Sẽ giải thích thêm một chút ở dưới. 

Vương Hộ Ninh là “phần tử trí thức công cộng”, nhưng xuất thân của ông ấy là một nhà khoa học chính trị. Rồi sau này ông trở thành một nhà triết học chính trị. Ở Việt Nam rất ít nhà khoa học chính trị thuộc khu vực công. (Nhà khoa học ở đây hiểu theo đúng nghĩa đen). Hoặc có thể là chưa có, không có một nhà khoa học chính trị thực sự nào đang ở khu vực công. 

2.

Tất nhiên, Việt Nam không có một nhà triết học nào (nói chung) và không có một nhà triết học chính trị nào nói riêng. Đương đại lại càng không.

Trung Hoa thì triết học lại quá nhiều, các nhà triết học chính trị (dùng triết học như một lý thuyết để trị quốc) cũng có những nhân vật tầm cỡ thế giới. Có thể kể đến Hàn Phi (rất nổi tiếng ở VN), hoặc Đổng Trọng Thư (kém nổi tiếng hơn) nhưng lý thuyết trị quốc và kiểm soát xã hội của ông ấy còn tồn tại đến tận ngày nay ở VN. Cả hai ông này đều cách xa chúng ta cả 2000 năm.

Thế kỷ XX ở TQ cũng có những triết gia và triết thuyết lớn. Ví dụ Tân Sự luận (một triết thuyết nhằm cải cách TQ thời hậu Thanh) có hai ý tưởng quan trọng là “Cộng tướng” và “Thù tướng”. Cộng-tướng là dung nạp các dị biệt. Nó rất giống với thể chế dung nạp mới được giải Nobel gần đây (nhưng ra đời sớm hơn cũng nên). Thù-tướng là coi trọng cái riêng, phát huy cái đặc sắc.

Cộng tướng là nền tảng lý thuyết “Ba Đại Diện” mà Vương Hộ Ninh đưa cho Giang Trạch Dân.

Thù tướng là nền tảng của các thuyết “Trung Hoa Mộng”, Chủ nghĩa xã hội Đặc sắc TQ” và “Tân kỷ nguyên” mà Vương Hộ Ninh đưa cho Tập Cận Bình.

3.

Khi mà đất nước Trung Hoa rơi vào vực xoáy Văn Cách, mà Tập là con nhà lãnh đạo đỏ còn phải về quê, thì Vương Hộ Ninh vẫn được học đại học, khoa tiếng Pháp.

Chủ đề nghiên cứu của Vương là chủ quyền (sovereignty). Ta có thể đoán là ở cỡ tuổi đấy, ở chế độ chuyên chính vô sản Maoist đấy, học tiếng Pháp, hẳn sẽ đọc gì. Câu trả lời rất dễ: Hobbles. Và có thể đoán thêm: Machiavelli. 

Với Vương thì chủ quyền phải do nhà nước nắm. Nhà nước ấy phải là một nhà nước chuyên chính. Dần dà theo thời gian, chủ quyền được hiểu rộng ra không chỉ là chủ quyền lãnh thổ (mà nay còn thiếu Đài Loan) mà còn là chủ quyền văn hoá, chủ quyền kinh tế, chủ quyền thương mại, chủ quyền trên không gian mạng (đây là khái niệm được thực thi sớm nhất nên các công ty internet Mỹ phải đứng ngoài TQ)… 

Các chủ quyền ấy phải ở tầm vóc và bối cảnh toàn cầu. Tất cả các khái niệm lớn về chủ quyền ấy, phải nằm trong tay một nhà nước chuyên chính, đúng hơn là nằm trong một nhóm quyền lực tập trung (centralized) và dần dần nằm trong tay một cá nhân thống nhất mọi quyền lực (united). Tất nhiên một nhân vật “nhất thống thiên hạ” ấy phải là TBT, nhất là vị TBT mà Vương Hộ Ninh đang phục vụ. (Lãnh đạo hạt nhân.)

Đến đây ta thấy dấu ấn của Machiavelli và Trần Vân trong thuyết trị nước của Vương Hộ Ninh. Machiavelli là người Vương hâm mộ, vì nước Tàu rất cần một quân vương và quân vương ấy sử dụng chủ thuyết kiểu Machiavelli: 

+ trước là không để đất nước cát cứ, phân rã và tan vỡ thành nhiều nước. Việt Nam là trường hợp rất hiếm hoi ly khai khỏi Tàu sau 1000 năm bị kiểm soát. Và hiện vẫn là mẫu hình cho anh em Hồng Công, Tây Tạng vân vân. 

+ sau là một quân vương nhất thống thiên hạ trên tất cả các loại chủ quyền ở bình diện quốc tế. 

Nhưng thực ra hiện nay TQ vẫn chưa làm được ở chủ quyền luật pháp quốc tế, chủ quyền đồng tiền quốc tế, chủ quyền hộ chiếu quốc tế, tức là vẫn thua xa Mỹ, thậm chí chưa có cả chủ quyền công nghệ lõi, vẫn bị phụ thuộc. Mặc dù Vương Hộ Ninh phê phán nền dân trị Mỹ trong trước tác kinh điển của ông “Mỹ quốc phản đối Mỹ quốc”, nhưng Mỹ tự nó cũng tiến hoá rất dị, nên những gì Vương nhìn nhận (điểm yếu) của dân chủ Mỹ có thể cũng đã lỗi thời.

5.

Khi viết luận văn “Chủ quyền nhà nước” và trước tác  “Mỹ quốc phản đối Mỹ quốc” thì Vương Hộ Ninh đã xác định cho mình một trường phái, đó là Tân Chuyên chính. Chuyên chính vô sản của Mác Lê Mao vốn rất thành công ở Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam và Trung Quốc, nhưng đến lúc Vương Hộ Ninh bước vào đại học thì nó đã, với tư duy của Vương, có vấn đề.

Trung Quốc tiếp cận triết học cổ Trung Quốc rất đa dạng. Cách thô sơ nhất là “tín cổ” rất quen thuộc ở VN. Tức là các vĩ nhân cổ xưa nói không có bao giờ sai. Mác Lê bác Hồ nói gì cũng là chân lý. Nhưng họ có một cách khác tiến bộ hơn, là “thích cổ”, tức là nỗ lực giải thích các triết thuyết cũ, bất chấp nó đã thành công thế nào, để xem nó đúng sai ở đâu, và nay áp dụng được gì. 

Là một nhà khoa học chính trị, lại là một giáo sư quan hệ quốc tế, tầm vóc và tư tưởng của Vương Hỗ Ninh đã đạt đến tầm một nhà triết học chính trị hiện đại, đem lý thuyết của mình áp luôn vào ba đời tổng bí thư liên tiếp. Rất may cho ông Vương này, tổng bí thư thứ ba mà ông phục vụ, là bậc quân vương đúng trong mơ của ông, mạnh mẽ, lạnh lẽo, đáng sợ và thu được quyền lực khắp nơi về một mối. Ba năm trước, sau Đại hội 20 của ĐCS TQ, Vương Hỗ Ninh tung ra “hai xác lập” “bốn ý thức” xoay quanh vị trí hạt nhân và tư tưởng của quân vương Tập Cận Bình.

6.

Nhưng con đường từ một giáo sư quan hệ quốc tế ở Phúc Đán, trở thành một nhà khoa học chính trị kiêm “công cộng trí thức phần tử”, đòi hỏi một sự dũng cảm. Ở VN các trí thức dũng cảm thường sẽ làm một hành động dũng cảm: phản biện xã hội, phản biện chính sách, hoặc phê phán vài lãnh đạo. Dũng cảm của Vương Hộ Ninh khác hẳn, ông này dũng cảm làm ngược lại các trí thức VN hehe. Ông ta nhìn vào thất bại của chủ nghĩa chuyên chính vô sản, dũng cảm bảo vệ nó, cải cách nó, dẫn dắt nó, cài cắm nó. Toàn những việc ủng hộ “cái ác”. Tức là cực kỳ dũng cảm để thành một triết gia Machiavellian.

Mà thật bất ngờ, Machiavelli bị coi là người xấu, tên của ông thành tính từ chỉ sự độc ác nham hiểm, còn Vương Hộ Ninh thì lại được tò mò tìm hiểu, và hâm mộ.

Dũng cảm không chưa đủ. Ông còn phải may mắn lấy một người vợ thuộc loại trâm anh thế phiệt đỏ, để từ Thượng Hải đánh tiếng được tới Trung Nam Hải. Khi vào được Trung Nam Hải, ông lại may mắn bỏ được bà vợ bậc thang này, lấy một cô sinh viên trẻ hơn, để nạp thêm năng lượng và tri thức chuyên ngành (quan hệ quốc tế, vì cô này dạy ngành này ở Phúc Đán). Rồi khi công thành danh toại, ông lấy người vợ thứ ba, rất trẻ rất đẹp, xuất thân ở tổ phục vụ lãnh đạo cao cấp. 

Ở đẳng cấp chính trị và địa vị xã hội rất cao, ông đâm ra chả cần trâm anh thế phiệt hay học vấn làm gì. Cứ trẻ và ngoan có lẽ là hai tiêu chí tốt nhất. Đó cũng là triết lý quan trọng nhất của một đời người đàn ông, dù ông ta có là nhà triết học chính trị thành công nhất lịch sử TQ.

***

Vương Hộ Ninh và Kinh tế tư bản bên dưới một nhà nước chuyên chính cai trị bằng công nghệ

(tiếp theo)

Cuộc cách mạng vô sản ở VN bắt đầu từ năm 1920 khi Nguyễn Tất Thành, khi đó đã toàn quyền sử dụng tên Nguyễn Ái Quốc, đọc được luận cương của Lê Nin. “Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin.”

Luận cương này bản chất là bài phát biểu tại Đại hội Quốc tế Cộng sản của Tiểu ban Dân tộc Thuộc Địa. Nguyễn Tất Thành đọc qua bản tiếng Pháp. Vào thời điểm này, Cách mạng Tháng 10 đã thành công ở Nga, chính quyền Xô Viết đã hình thành, và đã có tiếng vang toàn cầu. (Xem ảnh, chụp từ Lê Nin Toàn Tập)

Hệ thống triết học nhà nước của Vương Hộ Ninh cụ thể là Chủ quyền Quốc gia, về mặt triết lý chủ yếu dựa vào các tiểu luận triết học chính trị của Lê Nin được viết từ năm 1914 đến 1916 (trước Cách mạng Tháng 10). Các tiểu luận này tập trung vào hai vấn đề rất lớn lúc bấy giờ (và cả bây giờ): Chủ nghĩa Đế quốc và Quyền Dân tộc tự quyết. Trung Quốc được Lê Nin nhắc đến nhiều (và có lẽ ông chẳng biết đến An Nam). (Xem ảnh chụp từ Lê Nin Toàn Tập).

Tất yếu, theo học thuyết mà Vương phát triển, Trung Quốc sẽ đối đầu với Mỹ.

*

Trước đó, Lê Nin tin vào một ý tưởng của Marx. Lê Nin tin rằng Marx đã đúng. Marx nhìn thấy chủ nghĩa tư bản phát triển thành đế quốc, một vài đế quốc cai trị cả thế giới. Nó cào bằng văn hoá, san phẳng chủ quyền. Nó sẽ phân hoá xã hội (ở quy mô toàn cầu) thành giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp sẽ hình thành ở tầm vóc quốc tế. Tức là Marx đã nhìn thấy toàn cầu hoá từ rất rất sớm. Lê Nin dựa vào tầm nhìn này của Marx và lập luận rất đúng: ở cỗ máy toàn cầu hoá ấy hẳn phải có chỗ yếu, ta cần tấn công (bằng cách mạng vô sản) vào những chỗ yếu ấy và làm nó sụp đổ. Marx thì tin là cách mạng vô sản sẽ xảy ra ở Anh Mỹ nơi giai cấp công nhân rất mạnh. Lê Nin thì cho rằng phải xô đẩy nó ở chỗ nó yếu nhất. Tình cờ chỗ yếu nhất ấy là đế quốc Nga. Và đúng là như thế.

Khi các đế quốc châu Âu suy sụp, nó vỡ ra, nhiều quốc gia dân tộc hình thành. Tương tự là các thuộc địa. Lê Nin cho rằng các dân tộc có quyền tự quyết đối với chủ quyền quốc gia/dân tộc của mình, miễn là không cản trở đấu tranh giai cấp. Tức là quyền dân tộc tự quyết phải đi với chuyên chính vô sản. Dân tộc (lớn) tự quyết sẽ có nhà nước vô sản (lớn), dần dà sẽ tiến tới thời điểm phải đối đầu với đế quốc lớn. Trung Quốc hiểu và chuẩn bị suốt mấy chục năm nay. Nhưng họ đúng là có quyền tự quyết cả trên lý thuyết lẫn thực tế. Còn VN chúng ta thì không.

*

Đế chế chuyên chính vô sản đầu tiên, và rất lớn, chính là Liên Xô. Cuối cùng chính nó cũng sụp đổ dưới sức nặng của nó. Làn sóng Cải Tổ, Công Khai và Đổi Mới Tư Duy ở Liên Xô lan rất mạnh qua Việt Nam dẫn đến Đổi Mới. Còn TQ, họ cải cách kinh tế rất sớm, từ năm 1978, trước Liên Xô sụp đổ 10 năm, và trước VN tiến hành Đổi Mới khoảng 15 năm.

Đổi Mới là tên gọi chính thức, nhưng là uyển ngữ. Tên gọi không chính thức lúc bấy giờ là Cởi Trói. Do Liên Xô sụp đổ nên cuộc cởi trói mở ra rồi đóng lại khá nhanh.

*

Các sách viết về Đổi Mới có khá nhiều, nhưng có vẻ như thiếu hai điểm quan trọng. Quyết định chính trị chủ yếu là từ Trường Chinh, cái này nay đã rất rõ. Nhưng kiến thức kinh tế mới nảy mầm ở đâu, theo hướng nào, tác động vào tư duy kinh tế ở tầm vóc quốc gia ra sao. Và dòng năng lượng kích hoạt nền kinh tế non nớt ấy xuất hiện từ đâu, nó ảnh hưởng đến tận ngày nay như thế nào.

*

Ở Hà Nội, các lý thuyết kinh tế tư bản (lúc đó cũng đã lỗi thời ở phương Tây) xuất hiện từ đầu những năm 199x ở một nơi rất dễ đoán. Đó là Viện Kinh Tế Thế Giới. Nó xuất hiện từ một nhóm cán bộ nghiên cứu trẻ, vốn là các học sinh khoá đầu của Khoa Kinh Tế Chính Trị, một cái khoa mà Đảng kỳ vọng đào tạo ra thế hệ lãnh đạo mới. Các cán bộ trẻ này, với tri thức và nhiệt huyết của họ, tận dụng lúc người trưởng phòng của họ là Lê Đức Thuý đi vắng mấy năm, đã biến phòng mình thành nơi dịch, thảo luận và truyển bá “lý thuyết kinh tế tư bản”. Một trong những cuốn sách quan trọng nhất với tri thức kinh tế VN trước năm 2000, cuốn của Mankiw, bắt nguồn từ đây. Nhưng các nhà kinh tế trẻ tuổi này, so với ngày nay, là các nhà kinh tế nghiệp dư. Phần học thuyết chính trị của họ nặng hơn kinh tế. Họ hoàn toàn không hiểu biết gì về nền kinh tế tư bản (vì họ thậm chí còn chưa đi nước ngoài lần nào). Các biến động kinh tế vi mô ở VN bấy giờ cũng xa xôi với họ. Và kiến thức sách vở mà họ lần mò tiếp xúc qua tiếng Anh tự học, cũng không thực sự bài bản. Cái mà họ thúc đẩy được, chính là não trạng của nền kinh tế chuyển đổi, từ tập trung bao cấp, qua Keynes cổ điển.

Ở HCMC, từ năm 1995, FETP đi vào hoạt động. Họ bài bản hơn, và giảng dạy giỏi hơn nghiên cứu. Đây là điểm khác với cái nôi lý thuyết kinh tế mới ở HN. Hơn nữa, các giảng viên toàn là Mỹ, kéo dài khoảng 7 năm họ mới thay máu bản địa vào. Tuy nhiên, họ lại dạy những cái dễ học, cụ thể là… kinh tế học Keynes cũ với giáo trình của Krugman và… Mankiw. Kinh tế học thể chế không được dạy, dù bản dịch sách của North vẫn được phát cho học viên sau khi tốt nghiệp. Các vấn đề quan trọng của Vi Mô thì dạy kỹ cái dễ (cung cầu), bỏ qua cái khó (lao động, vốn/công nghệ) và đặc biệt là ngoại tác (dù sau này thực tế diễn ra ngay trước mắt là Vedan làm ô nhiễm dòng sông.)

Hệ quả là nền kinh tế của VN với sự điều hành của một chính phủ “lớn” suốt ngày, cho đến tận bây giờ, vẫn chỉ: kích cầu lúc khó khăn, đầu tư công lúc muốn tăng trưởng, kiểm soát lãi suất và tỉ giá, can thiệp các thị trường nếu cảm thấy bất an (vàng), buông lỏng các thị trường nếu nó mang về nguồn thu cho ngân sách (bất động sản).

FETP có một môn đặc biệt, họ dạy về các mô hình phát triển: Đài, Malay, TQ, Hàn vân vân. Đây có lẽ cũng là một nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự lệch hướng của cả một (hoặc vài) thế hệ trí thức quan tâm đến chính sách và thể chế. Họ cứ mải miết suốt 20 năm đi tìm một mô hình thích hợp với VN. Việc này là vô nghĩa, nó vô nghĩa giống như cứ đi tìm sơ đồ chiến thuật nào, Barca hay Real, MU hay Arsenal, phù hợp với đội tuyển Việt Nam. Ngay cả mô hình mà VN dễ tham khảo nhất là Hàn và Tàu, thì lại bị lảng tránh

*

Nền kinh tế chuyển đổi hồi những năm 199x rất yếu ớt, đã có lúc (trước Đổi Mới) suýt nữa “ra đi chân lạnh toát”. Thế mà nền kinh tế ấy ấm dần, khoẻ dần, lớn dần. Đó là nhờ một nguồn năng lượng (máu) vô tận tăng dần theo thời gian suốt 20 năm. Đó là lực lượng “con phe”, “con buôn”. Các con phe, con buôn ấy là lực lượng lúc đầu bé nhỏ, bị gạt ra bên lề, làm lưu thông hàng hoá nội địa (mua đầu chợ bán cuối chợ, mua miền xuôi bán miền ngược, buôn đường dài Nam Bắc). Họ chuyển mình rất sớm, khi VN đang ở lúc đói nghèo nhất: 1979. Lúc đầu là buôn trong nước. Sau buôn hàng nhập khẩu. Sau nữa mới xuất khẩu. Lịch sử Đổi Mới quên hẳn những “con phe” giai đoạn 1979-1989. Chính những người có đầu óc con buôn này hình thành nên các công ty Imex sau này. Từ các Imex hình thành nên Nhóm Thứ Sáu. (Nhóm thứ sáu thực ra ảnh hưởng chính sách rất ít, nhưng họ lại là showcase thực tiễn để chứng minh cho việc cần phải áp dung các nguyên lý kinh tế tư bản vào…. não trạng thủ đô.)

Lực lượng con phe lớn mạnh, hình thành một giai cấp mới, giàu có hơn, sung túc hơn, linh hoạt hơn, bôi trơn cũng thoăn thoắt hơn, đánh quả cũng to hơn, dần dần đánh quả cả sang các dự án đầu tư công lúc này bị kinh tế học Keynes thô sơ thúc đẩy. Và cũng giống như Hàn thời Lý Thừa Vãn, đám dân đánh quả kiếm chác tiến hoá thành một nhóm đại gia của một nền kinh tế chuyển đổi, và một số ít hiện đang được kỳ vọng trở thành các Chaebol như Hàn dưới thời Park Chung-Hee. Nhưng điểm yếu cố hữu của nhóm này là đánh quả có trong gene của họ. Họ không thể làm được những gì có tính chất lâu dài, bền vững, mà lại phải đầu tư nhiều (dễ mất hơn là dễ được). Cho nên cuối cùng ở VN, trước là commerce, sau là trading mới là mảng tập trung được nguồn lực tốt, mảng công nghiệp nhẹ (bao gồm cả gia công thô sơ) chẳng hứng được gì.

*

Bên cạnh hai thiếu sót nói trên, sử kinh tế còn bỏ quên các triết gia của chế độ, dù họ chỉ ở tầm nghiệp dư so với thế giới ngay cả trong lĩnh vực họ thạo nhất là Mác Lê. Họ hỏi nhau: vậy chúng ta sai từ đâu và ở đâu. Để đi tìm câu trả lời, họ quyết tâm và quyết liệt làm một việc rất kỳ quái: dịch lại Hegel. Có lẽ họ nghĩ Hegel mới là gốc, còn đến Marx thì đã sai. Với bao công sức kỳ quái ấy, nếu dồn vào dịch và truyền bá John Locke, thì có thể ngày nay cũng có vài khác biệt. Ít ra thì chúng ta vẫn là cây tre, nhưng cây tre ấy hiểu Mỹ hơn, hiểu phương Tây hơn.

*

Trong lúc đang không có “dân tộc tự quyết”, không có kiến thức bài bản, không có giới nghiên cứu công vững vàng về nền tảng, không có giới đại học vững kiến thức và tư tưởng tự do với những thứ mới mẻ, không có các phần tử trí thức đủ cả kiến thức lẫn am hiểu thực tiễn và giàu ý tưởng, xung đột giai cấp tái xuất hiện (ngấm ngầm), thì công nghệ tràn đến.

Dân chủ là quan hệ giữa người và người, giữa công cộng với tài sản riêng và quyền cá nhân. Tự động hoá, cơ giới hoá, công nghệ hoá càng phát triển thì nền dân chủ càng bị thu hẹp, chuyên chính càng mạnh. Marx thực ra đã nhìn thấy, có điều với ngôn ngữ thời đấy, và tiến bộ công nghệ thời đấy, ông không diễn đạt được ra cho chúng ta (những con người của internet, AI, drone, hệ thống camera giám sát xã hội) có thể hiểu được. Nhưng Vương Hộ Ninh dường như lại hiểu được. Nên nền chuyên chính của họ không chỉ đi trước VN một bước, mà còn đi xa hơn, đi sâu hơn, vận hành hiệu quả hơn.

*

Nhưng mà một nền kinh tế vận hành bằng ý thức hệ tư bản, nằm dưới một nhà nước chuyên chế cai trị bằng công nghệ, thì nó sẽ ra sao. Cái này chắc Vương Hộ Ninh cũng chịu chết. Nhất là khi đế quốc Trung Quốc chuyên chế đỏ lại đang va chạm với đế quốc Mỹ có xu hướng chuyển sang độc tài (và cả hai đều mạnh về công nghệ thao túng và kiểm soát đám đông).

*

Việt Nam đúng lúc ấy, chuẩn bị vươn mình, thì mắc kẹt giữa hai làn đạn. Nghĩ cũng thấy thương.

*

Các cô gái đẹp và ngoan có rồi. Mà chưa thấy Vương Hộ Ninh của Việt Nam ở đâu. Nếu đã có rồi, xin hiện ra cho chúng tôi đỡ sốt.

Nhưng tại sao lại cần những cuộc cách mạng (như cách mạng vươn mình)

(tiếp và hết)

Lại phải quay về với Vương Hộ Ninh.

Trong “Mỹ quốc phản đối Mỹ quốc”, Vương Hỗ Ninh dùng một thuật ngữ của Weber là Entzauberung để phân tích xã hội Hoa Kỳ. 

Từ này tiếng Anh là enchantment, nghĩa là “giải mê”, “giải tín”. Đây là một khái niệm rất quan trọng của Weber, được coi là cốt lõi tạo ra tinh thần tư bản chủ nghĩa hiện đại ở phương Tây. Entzauberung nghĩa là kéo xã hội và chính quyền ra khỏi niềm tin (tín ngưỡng) vào chúa trời (hay các đấng thần linh). Trả họ về cuộc sống thế tục ở trần gian (entzauberung der Welt) và lý tính hoá xã hội, trong đó có lực lượng sản xuất, để tạo ra một xã hội toàn những con người sống thanh đạm (một đặc tính Tin lành), chăm chỉ lao động, và lao động (cũng như sống) có kỷ luật. (Và những người Tin lành, họ tin vào sự lý giải của chính mình về đạo đức, luân lý bằng cách tự đọc kinh thánh thay vì qua diễn giải của linh mục).

Vương Hỗ Ninh cho rằng Entzauberung (giải mê)- ông dùng từ 非神秘化 (phi thần bí hoá)- giúp Mỹ có một nền khoa học công nghệ tiên tiến và nền kinh tế sản xuất tiêu dùng hiện đại. Nhưng nó lại phá hoại nước Mỹ ở chỗ người dân không còn tin vào những gì thiêng liêng, thần bí, không kính nể thánh thần không sợ ma quỷ, không tin vào những lãnh đạo thiên tài (màu nhiệm) sẽ thế tục hoá cả những gì ở “tầng trên” lẽ ra cần được phong thánh: đó là giới lãnh đạo Hoa Kỳ. Thiếu tính thần bí, nhiệm màu, bí hiểm, con người ai cũng trở nên tầm thường, như nhau, cá mè một lứa, dù là dân hay là vua, là công nhân hay tổng thống. Động lực làm việc bị lý tính hoá hoàn toàn, chỉ chạy theo đồng tiền. Không còn các khát khao kiểu một người bình thường làm được những việc phi thường nhờ có lý tưởng (cao quý, siêu nhiên, cộng sản) thúc đẩy. Hoặc đơn giản là giới cần lao sẽ dốc sức cống hiến khi họ có niềm tin vào khẩu hiệu thần thánh thi đua là yêu nước như ở Iran, Bắc Hàn, TQ. Tệ hơn nữa, khi giải cơn mê vào các bậc thánh thần, con người không còn sợ ma quỷ, nhưng cũng chẳng tôn sùng trời đất, con người sẽ bị gạt ra bên ngoài sự hài hoà trong sự vận hành của (đấng) tự nhiên.

Còn ở Trung Quốc thì ngược lại, con người vẫn đầy các hành vi cảm tính, phi lí tính (hai trong bốn hành vi xã hội theo lý thuyết Weber). Người dân lao động Tàu (quần chúng) vẫn tin vào thiên địa, kính trọng thánh thần, e sợ ma quỷ. Họ vẫn tin vào các cuộc cách mạng thần thánh dẫn dắt dân tộc Trung Hoa đi đến đỉnh cao loài người. Các đảng viên Tàu vẫn tin vào lãnh tụ thiên tài màu nhiệm phi thường nói gì làm gì cũng đúng đưa đất nước đến thắng lợi cuối cùng. 

Đế chế Trung Quốc hiện đại sẽ phải có lãnh đạo “nhất thống thiên hạ”. Giải cơn mê Mỹ quốc, để có Mộng Trung Hoa. Nhưng trước mắt cần một nền kinh tế có tinh thần tư bản hiện đại (Weber), vận hành dưới một nhà nước chuyên chế (Lenin) do một lãnh tụ thiên tài kiểu quân vương (Machiavelli) dẫn dắt.

*

Ở VN cũng như TQ, chúng ta quen với Quốc tế cộng sản 4 (Đệ tứ quốc tế) và tư tưởng cách mạng liên tục của họ (tức là của Trosky). Chúng ta cũng biết Đệ tứ tuy là cộng sản Nga, nhưng là bọn phản bội và cần phải thanh lọc. 

Nhưng Mao lại liên tục làm các cuộc cách mạng, trong đó có Văn Cách.

Tập cũng liên tục cách mạng, trong đó có Đả Hổ.

Đó là vì từ Mao đến Vương Hỗ Ninh có một dòng chảy về quan niệm lãnh đạo. Quan niệm ấy là của… Weber. Weber cho rằng có ba loại lãnh đạo. Loại “tân kỳ” nhất là lãnh đạo có thẩm quyền (authority) thông qua hệ thống pháp lý và lý tính (legal-rational) kiểu các nhà nước dân chủ phương Tây. Loại lạc hậu nhất là thẩm quyền theo truyền thống (traditional, cha truyền con nối trong hoàng tộc). Và loại ở giữa là lãnh đạo là nhà cách mạng, tự thân có sức hút quần chúng, đủ sức phát động cách mạng và đương nhiên đủ thẩm quyền làm lãnh đạo hạt nhân. Tức là các lãnh đạo “màu nhiệm”, được phong thánh, kiểu bác Mao, bác Tập.

Vương chọn loại ở giữa. Đó cũng là tiêu chí lập “quân vương” của Vương Hộ Ninh.  

Cuộc cách mạng vươn mình, nếu đúng đây là một cuộc cách mạng, đã chính thức xuất hiện. Nó xuất hiện không phải như một sự kiện, mà là một quá trình, lờ mờ từ sáp nhập, rõ nét nhất là bỏ cấp huyện, và dứt điểm bằng 28 nghị định phân quyền (hôm nay công bố). Giả sử đây là một cuộc cách mạng (thường thì cách mạng chỉ được nhìn nhận là cách mạng sau khi nó thành công), thì việc bỏ cấp huyện và bỏ hộ khẩu là hai động tác “undo Hán Hoá” rất quan trọng, vì người Hán mang hai món này đến với nước Lạc ngày xưa. 

Nếu đi vào chi tiết, lý luận của Weber còn có dấu ấn ở cơ cấu nhà nước, ví dụ phân cấp phân quyền (hierachical structure), vận hành trong khuôn khổ hành lang pháp lý (rule-bound operation), phân công lao động (division of labor), tuyển dụng và bổ nhiệm theo thành tích (merit-based recuitment and promotion). Những thứ này rất hợp với nhà nước TQ hiện đại và chắc là đang được áp dụng triệt để. Nhưng khác với VN. 

Nếu các cải cách chính quyền như VN hiện đang làm mà thành công, mô hình quản trị đất nước VN sẽ chuyển từ Hà Đồ qua Lạc Thư, tức là thay quản trị theo tầng nấc sẽ quản trị bánh xe. Nhóm “lãnh đạo then chốt” là trục xe, nằm chính giữa và quản lý thẳng tới vành ngoài của bánh, gần như không cần cấp trung gian. Cách phân quyền (thông qua các nghị định vừa ban hành) đẩy quyền và sức ép chịu lực ra xa trục (chính quyền trung ương) và dồn xuống vành và bánh xe (địa phương)  Đây là mô hình quản trị mà Meta đang dùng, Elon Musk đang dùng. Vì công nghệ hiện đại giúp loại bỏ middle management, và lãnh đạo có đủ nguồn lực để nắm bắt và chỉ đạo trực tiếp ác vấn đề xảy ra hằng ngày và liên tục ở cấp cơ sở.

PS 1. Hôm nay ông Việt gửi tặng một cái MacBook Pro. Thế là sau 1 năm không có máy laptop để viết, toàn dùng bàn phím bluetooth (rất xịn, do Hiếu tặng) để nối vào iPad Mini viết bài, nay lại có máy tính. Nhưng thực ra cũng chẳng khác gì. Vì ở câu lạc bộ Sống Gấp, chúng tôi cần cái khác hehe.

PS 2.

Vương Hỗ Ninh (báo VN gần đây viết là Vương Hộ Ninh) có thể coi là nhà triết học chính trị Trung Quốc đương đại. Lớn nhất và thành cônng nhất. Tư tưởng cốt lõi của ông ấy có thể gói gọn trong ba cái gạch đầu dòng: 

a) Thể chế chưa bao giờ là điểm mạnh của nhà nước Trung Hoa/Trung Quốc. 

b) Để trị quốc, hoàng đế Trung Hoa, hoặc Đảng CS Tung Quốc (và tổng bí thư) cần có một tư tưởng chủ đạo và sử dụng công cụ truyền thống là pháp trị. 

c) Tất cả các triều đại lớn của Trung Hoa đều suy tàn do quan chức cấp cao tham nhũng và xa hoa. 

Mặc dù Vương Kỳ Sơn được coi là kiến trúc sư của chiến dịch đả hổ nhưng về tư tưởng thì có thể thấy chính là Vương Hỗ Ninh mới là người thúc đẩy toàn Đảng Tàu quyết tâm chống tham nhũng (đến nay hơn 4,4 triệu đảng viên TQ đã bị bắt vì tham nhũng, con số nhìn thấy thôi cũng đã ngạt thở). Đây là hệ quả của điểm b và c nói trên. Riêng điểm b) thì Vương Hỗ Ninh mỗi triều đại (ông này đã phục vụ ba triều hoàng đế Trung Hoa) đều nghĩ ra một tư tưởng gì đó. Đầu tiên là Ba Đại Diện (Giang Trạch Dân) và nay là “Chủ nghĩa Xã hội Đặc sắc Trung Quốc” và “Trung Hoa Mộng”. Tư tưởng của Vương Hỗ Ninh rất Tàu, tức là nghe nó vừa cao siêu vừa thần bí, vận dụng sao cũng được.  

Tuy nhiên Vương Hỗ Ninh cũng giống các triết gia Trung Hoa trước đây, họ giỏi việc trị quốc, cụ thể là cai trị cả tỷ nông dân Trung Hoa, nhưng rất bối rối trong việc đưa ra một tư tưởng mà trong đó Trung Hoa phải cạnh tranh ở bối cảnh toàn cầu. Trung Hoa Mộng (từ bỏ Thao quang dưỡng hối) có vẻ như là bước đầu chập chững của Trung Quốc muốn ngoi lên như một đế quốc toàn cầu, dẫn dắt thế giới, nhưng có cái gì đó rất vụng về, ngô nghê, ngạo mạn và thô bạo. Cho nên cuối cùng thì cũng phải quay về dân chủ hóa (ít nhất là trong Đảng) và cải cách tư pháp. Chẳng ai nắm tay được cả ngày, chẳng ai thổi lò kéo bễ được cả đời.

Đọc sách của Jonathan Fenby, cuốn History of Modern China, ta sẽ thấy Neo-authoritarianism của Huttington đã được các trí thức ủng hộ Triệu Tử Dương sử dụng để củng cố lại chế độ cộng sản ở TQ. Đích thân Triệu Tử Dương đã giải thích lý luận này cho Đặng, Đặng ok nhưng yêu cầu sửa chữa từ ngữ cho phù hợp hơn. Tư tưởng tân chuyên chế (tân chuyên chính vô sản) này yêu cầu một lãnh đạo tập quyền, cứng rắn để vượt qua các trì trệ quan liêu (VN gọi là phá rào/đổi mới) để thúc đẩy phát triển kinh tế mà không bị tầng lớp theo chủ nghĩa phóng túng tư sản (bourgoise liberalism) vốn rất mạnh ở Trung Quốc thao túng (tầng lớp này ở VN không có, vì nó chỉ tồn tại ở các khu vực kinh tế mở cửa lâu đời và có các trường đại học đủ tốt như Thượng Hải, hoặc có kết nối từ bên ngoài như Đài Loan, Hồng Công). 

Tuy nhiên, lúc đó đen cho TQ là thế giới biến động rất mạnh (Liên Xô sụp đổ, bạo loạn Tây Tạng, sự kiện thiên an môn…) nên Triệu Tử Dương bị phế truất, Đặng đưa quân đội vào Bắc Kinh. Các sĩ quan chống lệnh đều bị tước quân tịch trong đêm và đưa vào bệnh viện.

Cuốn sách của Fenby cũng cho ta thấy các kỹ năng “đả hổ” của Tập cũng khá giống kỹ năng Đặng Tiểu Bình dùng để hạ gục hai tổng bí thư là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương. Người cứu Hồ Diệu Bang chỉ mất chức (từ chức tổng bí thư) chứ không mất mạng là Tập Cận Huân, bố của Tập Cận Bình.

Trong nhiệm kỳ đầu Tập Cận Bình vẫn đề cao đường lối “Y Hiến Trị Quốc”, tức là vận hành nhà nước, quốc gia và xã hội thượng tôn hiến pháp, hơi giống chủ nghĩa hiến pháp kiểu Mỹ. Nhưng đến nhiệm kỳ sau, có lẽ chính Vương Hộ Ninh đã vận động Tập Cận Bình chuyển hướng sang “Y Pháp Trị Quốc”, tức là dùng luật pháp để cai trị đất nước. 

Đây là một chuyển biến rất lớn, bởi “Y hiến trị quốc” đã được diễn giải thành “Y hiến chấp chính”, tức là dùng hiến pháp để nắm quyền lực, sau đó từ vị trí độc tôn về quyền lực mới chuyển sang cai trị bằng pháp luật. Đây là lý thuyết “Tân Uy-quyền luận” của Vương Hộ Ninh. (Uy quyền, tiếng Tàu, tương đương với Power trong tiếng Anh và Quyền lực trong tiếng Việt. 

“Y pháp trị quốc” trong tay một quân vương sẽ cho phép vị quân vương này, giả sử là minh quân, chỉnh sửa luật pháp để thuận cho việc phát triển đất nước. Ví dụ Tàu mà cần xây đường sắt cao tốc, trong lúc bị ràng buộc về thể chế và nguồn lực, thì họ sẽ phải dùng PPP và sửa luật (cải cách thể chế) để mở đường cho PPP vận hành và tồn tại. (Xem bài PPP và Kinh tế học Tân thể chế của Vũ Hoàng Linh ở đây:https://vhlinh.substack.com/p/du-an-uong-sat-cao-toc-bac-nam-duoi?fbclid=IwY2xjawKqTJhleHRuA2FlbQIxMQBicmlkETF3VGpJb1lhYmZvRm9Vd2V4AR4-fujqSU_DYt4eKezIsnufBHKnKWwm8cG1VKAxM4jcNI1hPYCuELLKqh0c8A_aem_fTjHwaEBdmg_acd6OnmsEg)

Vì PPP cho một dự án khổng lồ và phức tạp, nên nhà nước, lúc này có thể chế pháp luật mạnnh trong tay có thể chủ động “chia bánh”. Như Hàn Quốc đã từng làm, gọi là pick the winner, dân gian VN gọi là “chọn mặt gửi vàng”. 

(Pick winners của Park Chung-Hee: https://www.piie.com/publications/chapters_preview/341/2iie3373.pdf?fbclid=IwY2xjawKs4h9leHRuA2FlbQIxMQBicmlkETFmT2xWSms1dEZEbWhzbllwAR4lug0PiWT8ri25q-rvD-QXoIBykuji1B8ye9p1Rlmf8Eq1YQgwNgEKi9TZpQ_aem_0YtQQACAq5js_9XadipKTw)

+ Gói làm đường ray, nhà nước làm chủ thầu, giao (pick the winner) cho Hoà Phát (thay vì đấu thầu).

+ Gói đầu tàu toa xe (bao gồm hệ thống điều khiển và cấp điện). Giao cho Thaco làm chủ đầu tư. Nhà nước hỗ trợ vay vốn. Thaco được quyền vận hành.

+ Gói nhà ga, kho hàng, bãi đỗ xe vân vân. Giao cho Vinspeed làm chủ đầu tư, nhà nước trả Vin bằng đất gần nhà ga và cho khai thác các ga. (Lúc này Vinspeed đổi tên thành VinStation.)

+ Gói thông tin đường sắt nhà nước làm chủ đầu tư, giao cho Viettel.

*

**

Xem tiếp các bài sau:

1. Vladislav Surkov: Vương Hộ Ninh của Nga xem phía cuối bài này: Ai đã giác ngộ và huấn luyện Peter Thiel, Musk và phó tổng thống JD Vance?

2. Mắc kẹt kiểu Peter Thiel

3. Peter Thiel và các hệ phái tư tưởng ở Silicon Valley và Bay Area

4. Tiếng gà gáy sáng làm thức tỉnh Peter

Hình đại diện của Không hiểu

About Blog của 5xu

Ti hí nhìn đời
Bài này đã được đăng trong Uncategorized. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.